Đến khoảng bốn giờ chiều chúng tôi bắt đầu bàn bạc về những dự định
cho buổi tối. Lúc ấy chúng tôi đã đi quá Goring một đoạn, và chúng tôi
quyết định sẽ chèo tiếp đến Pangbourne rồi nghỉ đêm ở đó.
“Lại thêm một tối vui vẻ nữa!” George lẩm bẩm.
Chúng tôi ngồi nghĩ đến viễn cảnh ấy. Đến năm giờ chúng tôi đã đến
Pangbourne. Chúng tôi sẽ ăn xong bữa tối lúc, để xem nào, sáu giờ ba
mươi. Sau đó chúng tôi có thể dạo quanh làng dưới cơn mưa xối xả cho đến
khi đi ngủ; hoặc chúng tôi cũng có thể ngồi trong một quán rượu lờ mờ
sáng đọc cuốn niên giám.
“Chà, nhà hát Alhambra chắc sẽ sôi động hơn nhiều,” Harris nói, đánh
bạo thò đầu ra ngoài tấm bạt một lúc để nghiên cứu bầu trời.
“Sau đó sẽ là một bữa khuya khiêm tốn ở …
vô thức.
“Phải, thật đáng tiếc là chúng ta đã quyết định gắn chặt với con thuyền
này,” Harris trả lời; và không gian chìm vào im lặng trong một lúc.
“Giá chúng ta đã không quyết định sẽ chịu chết trong cái quan tài cũ
chết tiệt này,” George nhận xét, liếc nhìn khắp lượt con thuyền với vẻ ác ý,
“thì cũng đáng đề cập đến việc tớ biết có một chuyến tàu hỏa rời
Pangbourne ngay sau năm giờ sẽ giúp chúng ta xuống thành phố kịp lúc để
đánh một bữa và sau đó đi đến chỗ mà cậu nhắc đến ấy.”
Không ai nói gì. Chúng tôi nhìn nhau, và dường như mỗi người đều nhìn
thấy những suy nghĩ tội lỗi và đáng xấu hổ của mình phản ánh trên gương
mặt những người khác. Trong im lặng, chúng tôi lôi chiếc va li Gladstone ra
kiểm tra kỹ lưỡng. Chúng tôi lại nhìn ngang dọc con sông; chẳng thấy ma
nào!
Hai mươi phút sau, người ta có thể nhìn thấy ba bóng người, theo sau là
một con chó trông có vẻ ngượng ngùng, lén lút bò từ ngôi nhà thuyền ở
quán “Thiên nga” về phía ga tàu hỏa trong bộ trang phục không gọn gàng
mà cũng chẳng hoa hòe hoa sói như sau: