ngày để chờ cơn mưa đến. Và mọi người thì cứ đi qua cửa nhà, tươi tỉnh và
vui nhộn trên những chiếc xe ngựa bốn bánh, mặt trời thì chiếu sáng ngoài
kia, và chẳng hề thấy tí mây đen nào cả.
“A!” chúng tôi nói khi đứng nhìn họ qua cửa sổ, “rồi họ sẽ về nhà trong
tình trạng ướt sũng thôi!”
Và chúng tôi cười khúc khích khi nghĩ họ sẽ phải chịu cảnh ướt át thế
nào, và quay lại chỗ ngồi, cời lửa lò sưởi, giở sách ra, rồi sắp xếp lại các
mẫu vật tảo biển và vỏ sò của mình. Đến mười hai giờ trưa, ánh nắng rọi
vào phòng, cái nóng đã trở nên khá là khó chịu, và chúng tôi tự hỏi đến bao
giờ thì những cơn mưa nặng hạt kèm theo sấm chớp ấy mới bắt đầu.
“À! Buổi chiều sẽ mưa thôi, rồi cậu sẽ thấy,” chúng tôi nói với nhau như
thế. “Ôi, họ sẽ không bị ướt đâu nhỉ. Thật là vui hết sức!”
Lúc một giờ chiều, bà chủ nhà vào để hỏi xem liệu chúng tôi có đi chơi
không, vì có vẻ như hôm đó là một ngày đẹp trời.
“Không, không,” chúng tôi trả lời, với một điệu cười khúc khích ranh
mãnh, “chúng tôi không đi đâu. Chúng tôi không muốn bị ướt sũng đâu -
không, không.”
Và khi đã sắp hết buổi chiều mà vẫn chẳng có dấu hiệu gì của mưa gió,
chúng tôi cố làm cho mình vui lên với ý nghĩ rằng rồi mưa sẽ trút xuống
dồn dập cùng một lúc ngay khi người ta sắp sửa về nhà và không ở gần chỗ
nào để trú mưa, và vì thế họ sẽ còn bị ướt sũng hơn bao giờ hết. Nhưng
chẳng có giọt mưa nào, và ngày hôm đó là một ngày tuyệt vời từ đầu chí
cuối, và tiếp theo là đến một đêm dễ chịu nữa.
Sáng hôm sau chúng tôi đọc được rằng đó sẽ là một ngày “ấm áp, thời
tiết đẹp đến rất đẹp; khá nóng”; vậy là chúng tôi khoác lên mình những thứ
quần áo mỏng manh rồi ra ngoài chơi, và, chỉ nửa tiếng sau khi chúng tôi
khởi hành, trời bắt đầu mưa rào rào, kế đó là một cơn gió lạnh tê tái, và suốt
cả ngày trời cứ mưa gió như thế, và chúng tôi về nhà mang theo bệnh cảm
lạnh và khắp người nhức mỏi, rồi chui lên giường.