Mùa hè năm đó chẳng có ngày nào là thời tiết đẹp cả. Tôi cho rằng cái
phong vũ biểu ấy hẳn là đang dự báo cho mùa xuân năm sau.
Rồi cả cái loại phong vũ biểu đời mới nữa, những cái dài thẳng đuột.
Tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo nó ra làm sao cả. Có một bên cho mười giờ
sáng hôm qua, và một bên cho mười giờ sáng hôm nay; nhưng ta đâu thể
lúc nào cũng đến chỗ nó từ mười giờ được, bạn biết thừa rồi còn gì. Cột
thủy ngân sẽ chạy lên hay hạ xuống để báo mưa hay thời tiết đẹp, gió mạnh
hay nhẹ, một đầu ghi chữ “Nly” còn đầu kia ghi chữ “Ely” (Ely liên quan
quái gì ở đây nhỉ?), nếu ta có vỗ vào thì nó cũng chẳng cho ta biết điều gì
cả. Ta lại còn phải điều chỉnh nó cho đúng mực nước biển và quy về thang
nhiệt Fahrenheit, và kể cả đến lúc đó tôi cũng chẳng biết nó chỉ cái quái gì
nữa.
Nhưng ai mà cần dự báo thời tiết chứ? Thời tiết xấu là đã đủ tệ lắm rồi,
nói gì đến nỗi thống khổ khi biết trước rằng nó sẽ xảy đến. Nhà tiên tri
chúng ta thích là ông già mà vào buổi sáng vô cùng u ám của ngày nào đó
khi chúng ta vô cùng mong muốn thời tiết hôm ấy sẽ dễ chịu, ông sẽ nhìn
quanh đường chân trời với đôi mắt vô cùng hiểu biết và nói rằng:
“Ôi không, thưa ngài, tôi nghĩ trời sẽ sáng sủa thôi. Sẽ sáng sủa, thưa
ngài.”
“À, ông ta biết trước mọi chuyện mà,” chúng ta nói khi chúc ông ta một
buổi sáng tốt lành, và lên đường; “các ông già biết nói những điều tuyệt vời
làm sao!”
Và chúng ta cảm thấy tình cảm thân ái dành cho người đàn ông ấy
không hề bị giảm sút trong hoàn cảnh thời tiết chẳng tươi sáng hơn chút nào
mà vẫn tiếp tục mưa đều đều cả ngày.
“À, ừ,” chúng ta cảm thấy, “ông ấy đã cố hết sức rồi.”
Còn với người dự báo cho ta thời tiết xấu, trái lại, chúng ta sẽ chỉ nuôi
dưỡng toàn những ý nghĩ thù hận và cay đắng.