thang dẫn ra mép nước rồi hét lên: “Cái Phà kia kìa, hê! Có Chúa chứng
giám, xin đa tạ.”
Khắp xung quanh, nhiều ngôi nhà cổ kể lại một cách rõ ràng về những
tháng ngày Kingston còn là một thành phố hoàng gia, và các quý tộc, cận
thần đã sống ở đó, gần Đức vua, và con đường dài dẫn đến các cánh cổng
cung điện cả ngày lúc nào cũng vui vẻ nhộn nhịp với gươm giáo lách cách,
ngựa non nhún nhảy, nhung lụa sột soạt và những gương mặt đẹp đẽ.
Những ngôi nhà to rộng với những cửa sổ lồi đan lưới mắt cáo, những lò
sưởi khổng lồ, những mái nhà có đầu hồi, đã được hít thở không khí của
thời bít tất dài và áo chẽn, thời yếm đính ngọc trai và những lời tuyên thệ
phức tạp. Chúng được xây lên từ thời “người ta biết cách xây dựng”. Những
viên gạch đỏ rắn chắc ấy chỉ ngày càng thêm kiên cố theo thời gian, và cầu
thang bằng gỗ sồi thì không hề kêu răng rắc khi ta cố gắng đi xuống một
cách lặng lẽ.
Nhắc đến cầu thang gỗ sồi tôi mới nhớ ra có một cái cầu thang bằng gỗ
sồi chạm khắc rất tuyệt được dựng trong một ngôi nhà ở Kingston. Bây giờ
nó là một cửa hiệu, nằm trong chợ, nhưng rõ ràng nó từng có thời là dinh
thự của một người có vai vế nào đó. Một người bạn của tôi, sống ở
Kingston, có lần đã đến đấy mua mũ, và, trong một khoảnh khắc không suy
nghĩ, thọc tay vào túi và trả tiền cho nó ngay tại chỗ.
Người chủ hiệu (anh này biết bạn tôi) lúc đầu đương nhiên là rất kinh
ngạc; nhưng rồi nhanh chóng tĩnh trí lại, và cảm thấy cần phải làm gì đó để
khuyến khích những hành động kiểu như vậy, bèn hỏi nhân vật chính của
chúng ta rằng liệu cậu ta có muốn xem vài món đồ bằng gỗ sồi cổ được
chạm khắc tinh vi không. Bạn tôi nói có, vậy là người chủ hiệu dẫn cậu ta đi
qua cửa hiệu lên cầu thang của căn nhà. Những chiếc trụ lan can đúng là
một tác phẩm thủ công tuyệt diệu và nguyên cả bức tường trên đường đi lên
được ốp gỗ sồi với những chi tiết chạm khắc hẳn là sẽ làm vinh danh cho cả
một cung điện.