Từ cầu thang gác, họ đi vào phòng vẽ, một căn phòng rộng rãi sáng sủa
được trang trí bằng một lớp giấy màu xanh lơ, dù hơi khiến người ta phải
sửng sốt nhưng trông khá vui tươi. Tuy nhiên căn phòng chẳng có gì đáng
chú ý, và bạn tôi phân vân không hiểu tại sao mình lại được dẫn vào đấy.
Người chủ nhà bèn đến bên bức tường dán giấy và vỗ nhẹ vào đó. Một âm
thanh của gỗ dội lại.
“Gỗ sồi,” anh ta giải thích. “Tất cả đều là gỗ sồi chạm trổ, lên tận trên
trần, y như những gì anh thấy ở chỗ cầu thang.”
“Nhưng, hỡi Caesar vĩ đại! chao ôi,” bạn tôi kháng nghị: “ngài không
định nói rằng ngài đã phủ kín những bức vách gỗ sồi chạm trổ ấy bằng giấy
dán tường màu xanh lơ đấy chứ?”
“Đúng thế đấy,” là câu trả lời: “tốn tiền lắm đấy. Dĩ nhiên là phải đánh
nhẵn hết trước đã. Nhưng bây giờ phòng này trông tươi hẳn lên rồi. Lúc
trước trông nó ảm đạm phát khiếp lên được.”
Tôi không thể nói rằng tôi dồn hết mọi trách cứ lên người này (không
còn nghi ngờ gì nữa, việc này rõ là một sự giải thoát cho tâm hồn anh ta).
Theo quan điểm của anh ta, quan điểm của một chủ hộ bình thường, thèm
được sống càng thoải mái càng tốt, chứ không phải của một tên dở hơi mê
đồ cổ hơn mọi thứ trên đời, thì anh ta cũng có lý của mình. Gỗ sồi chạm
khảm nhìn thì đẹp đấy, có một ít thì cũng thích đấy, nhưng rõ ràng, đối với
những người không mê cái của ấy, sống bên trong một căn nhà như thế thì
rõ là hơi có phần buồn tẻ. Có khác gì sống trong một cái nhà thờ đâu.
Không, điều đáng buồn trong trường hợp này là cái tay chủ nhà kia,
chẳng quan tâm tí gì đến gỗ sồi chạm trổ, lại có cả một căn phòng vẽ ốp gỗ
sồi chạm trổ, trong khi những người quan tâm tới gỗ sồi lại phải trả cả núi
tiền để có được nó. Có vẻ đấy là quy luật của thế giới này. Mỗi người đều
có thứ người đó chẳng thiết gì và những người khác lại sở hữu thứ anh ta
đang tha thiết muốn.
Ông nào đã trót lấy vợ thì chẳng có vẻ gì là muốn sở hữu món tài sản
này cho lắm trong khi bọn thanh niên chưa vợ kêu gào sao mình chẳng