trên mũi nó, và sẽ cắm đầu cắm cổ nghiên cứu xem cái mẩu đuôi đã mất của
nó đẹp đến nhường nào.
Chúng ta, trong thời đại này, không thấy được vẻ đẹp của con chó ấy.
Chúng ta quá quen với nó rồi. Cũng như hoàng hôn và những ngôi sao:
chúng ta không kinh ngạc trước vẻ đẹp của chúng vì hoàng hôn và sao thì
đã quá nhàm mắt rồi. Con chó này cũng thế thôi. Đến năm 2288, người ta
sẽ trầm trồ trước nó. Việc chế tạo những con chó như thế sẽ thành một thứ
nghệ thuật thất truyền. Con cháu chúng ta sẽ tự hỏi không biết chúng ta đã
tạo ra nó như thế nào, rồi ngợi ca rằng chúng ta mới giỏi giang làm sao chứ.
Chúng ta sẽ được nhắc đến một cách trìu mến như “những nghệ nhân vĩ đại
có ảnh hưởng rộng lớn hồi thế kỷ mười chín, và đã tạo ra những chú chó sứ
này”.
Mảnh “vải thêu mẫu” do cô chị cả làm ở trường sẽ được gọi là “tấm
thảm thêu thời Victoria”, và trở nên gần như vô giá. Những chiếc cốc vại
màu xanh và trắng của các quán trọ lề đường ngày nay sẽ được săn lùng ráo
riết, rạn nứt và sứt mẻ lung tung, nhưng sẽ được bán với giá là số vàng bằng
trọng lượng của chúng, và đám nhà giàu sẽ dùng chúng để uống vang đỏ;
rồi du khách Nhật Bản sẽ tranh nhau mua “Những món quà từ Ramsgate,”
và cả “Đồ lưu niệm của Margate” may mắn chưa bị phá hủy, và mang
chúng về Jedo như một thứ đồ cổ quý giá của nước Anh.
Đúng lúc này, Harris ném mái chèo, đứng lên rời khỏi chỗ ngồi và nằm
ngửa ra khoang thuyền, chổng cả hai chân lên trời. Con Montmorency hú
lên và nhảy lộn nhào, vậy là cái giỏ mây trên cùng nảy bật lên, tất cả mọi
thứ đổ hết ra ngoài.
Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn không mất đi sự bình tĩnh. Tôi nói, giọng
khá khôi hài:
“Ối chà, làm thế để làm gì?”
“Làm thế để làm gì à? Tại sao...”
Không, suy đi tính lại, tôi sẽ không nhắc lại những gì Haris đã nói. Có lẽ
tôi cũng có phần đáng trách, tôi thừa nhận thế, nhưng không gì có thể biện