nhập bọn. Những người vốn đã từ bỏ mọi hy vọng ra vào, hay mọi hy vọng
gặp lại gia đình bè bạn, đã lấy lại được dũng khí khi nhìn thấy Harris và bầu
đoàn của hắn, sau đó cũng gia nhập vào đoàn quân ấy, cầu Chúa ban phúc
lành cho hắn. Harris nói hắn đoán tổng cộng phải có đến hai mươi người đi
theo; và một người phụ nữ bế con nhỏ đã ở đây suốt cả buổi sáng cứ khăng
khăng đòi bám tay hắn vì sợ sẽ lạc mất hắn.
Harris cứ tiếp tục rẽ phải, nhưng có vẻ đấy là một chặng đường dài, và
tay họ hàng của hắn bảo, cái mê cung này chắc phải lớn lắm.
“Ôi, một trong những cái lớn nhất châu Âu ấy chứ,” Harris bảo.
“Ừ, chắc thế,” tay kia đáp, “vì ta đã đi ít ra là hai dặm rồi đấy.”
Bản thân Harris cũng bắt đầu nghĩ có gì đó là lạ ở đây, nhưng hắn cứ nín
thinh cho đến khi, rốt cuộc, họ đi ngang qua nửa cây nấm thông nằm dưới
đất mà người bà con của Harris thề là đã nhìn thấy ở đó bảy phút trước.
Harris bảo: “Ồ, không thể nào!” nhưng người phụ nữ có con nhỏ bảo,
“Không sai tí nào,” vì chính cô đã giật nó ra khỏi tay đứa bé và vứt xuống
đấy ngay trước lúc gặp Harris. Cô này còn nói thêm cô ước gì mình chưa
bao giờ gặp Harris, và phát biểu rằng hắn là một thằng lừa đảo. Chuyện này
làm Harris cáu điên, và hắn bèn trình ra cái bản đồ và giải thích giả định
của mình.
“Có thể cái bản đồ ấy chỉ đúng đường,” một người trong đoàn lên tiếng,
“nếu anh biết bây giờ chúng ta đang ở chỗ quái quỷ nào trong ấy.”
Harris không biết, và đề xuất rằng lúc này điều nên làm nhất là quay trở
lại lối vào và bắt đầu từ đầu. Cái phần bắt đầu từ đầu của ý tưởng này
không được hưởng ứng nhiệt tình cho lắm, nhưng chuyện quay trở lại lối
vào thì mọi người đều nhất trí tán thành, vậy là họ bèn quay đầu, và lại đi
theo Harris, theo hướng ngược lại. Mười phút nữa trôi qua, và họ thấy mình
đang đứng giữa mê cung.
Lúc đầu Harris nghĩ nên giả vờ rằng đây chính là nơi hắn định đến,
nhưng trông đám đông có vẻ nguy hiểm quá, thế nên hắn đành quyết định
coi đó là rủi ro vậy.