Ông già hoang mang mất một lúc. Ông ta dụi dụi mắt và nhìn tôi chằm
chằm. Nhìn bề ngoài tôi đâu khác người bình thường: ông ta không hiểu
nổi.
Ông ta nói:
“Ngài là người nơi khác mới tới đây phải không? Ngài không sống ở
đây à?”
“Không,” tôi nói. “Ta không sống ở đây. Nếu ta sống ở đây thì còn lâu
ông mới còn sống ở đây được.”
“Vậy thì,” ông ta nói, “ngài muốn đi thăm các ngôi mộ - mộ địa - người
chết bị chôn, ngài biết đấy, mấy cái quan tài ấy mà!”
“Ông là đồ lừa đảo,” tôi đáp, bắt đầu hăng lên; “Ta không muốn xem mộ
- không phải mộ của ông. Tại sao ta phải làm thế chứ? Chúng ta cũng có mộ
của mình, gia đình chúng ta có. Ông chú Podger của ta có ngôi mộ ở nghĩa
địa Kensal Green, đó là niềm kiêu hãnh của toàn bộ miền ấy; và hầm mộ
của ông nội ta ở Bow có thể chứa đến tám người vào thăm, trong khi bà cô
tổ Susan của ta có một ngôi mộ gạch ở nghĩa địa Finchley với bia mộ có
phù điêu hình gì đó kiểu như bình cà phê, và có mái vòm bằng thứ đá trắng
tốt nhất cao tới mười lăm centimet, mấy thứ đó là cả đống tiền ấy. Khi ta
muốn thăm nghĩa địa thì đấy là những nơi ta sẽ đến. Ta không cần thăm mộ
người khác. Khi nào chính ông được chôn xuống đất, ta sẽ đến xem mộ của
ông. Đó là tất cả những gì ta có thể làm cho ông.”
Ông già bật khóc. Ông ta bảo một trong số những ngôi mộ ấy có một
miếng đá ở trên cùng mà nghe nói có lẽ là phần còn lại của một bức tượng
hình người, và một ngôi mộ khác có mấy chữ khắc mà chẳng ai giải mã
được.
Tôi vẫn giữ thái độ sắt đá, và với giọng rền rĩ, lão già bảo:
“Vậy, ngài có muốn đến xem cửa sổ nhà tưởng niệm không?”
Cả thứ ấy tôi cũng chẳng xem, vì thế lão đành giở ra chiêu cuối cùng.
Lão rón rén lại gần và khàn giọng thì thào: