phố, họ có thể nhìn thấy chiếc xe nôi rồi. Tim Martha đập nhanh hơn. Nhỡ
chiếc xe nôi vẫn đúng đó suốt hai tiếng vừa rồi mà tên tội phạm không đi
qua thì sao? Hoặc nhỡ có vụ bắt bớ nào ở đâu đó? Họ cẩn trọng tiến tới chỗ
chiếc xe nôi và khi đã đến thật gần Martha chìa gậy chống ra. Quả thật có
thể có một quả mìn hay thứ gì đó đáng sợ trong chiếc xe nôi, bởi thế tốt
nhất là nên cẩn thận. Chiếc gậy không đủ dài. Bà đã vô tình cầm nhầm
chiếc gậy của Anna-Greta và nó vẫn còn bị cong queo. Thay vào đó, họ
bước xung quanh chiếc xe nôi một vài vòng, sau khi hít thở thật sâu mấy
lượt, họ đánh liều nâng chiếc mui che mưa lên. Rồi họ nhìn thấy: em bé
búp bê đã bị tụt xuống và ai đó đã lục tung những tấm chăn lên. Chiếc đệm
và những chiếc tã nhồi tiền đã biến mất, và dưới những tấm chăn có thể
nhìn thấy một chỗ gồ lên, thực ra là hai chỗ, giống như lưng lạc đà. Martha
lấy hai tay sờ và thở dài một tiếng bởi vì có hai bức tranh ở đó thật. Chúng
được bọc kĩ và những ngón tay bà chạm vào hai chiếc khung rắn chắc. Một
chiếc hình chữ nhật như trên bức tranh của Monet và chiếc kia lượn sóng,
rộng và có các góc tròn như ở bức tranh của Renoir. Bà cố nhấc bức tranh
của Renoir lên để xem, nhưng không được – chiếc khung mạ vàng đó quá
nặng.
“Được rồi, chúng ta sẽ đi thẳng tới bảo tàng chứ?” bà hạ giọng nói, và
Christina gật đầu. Họ mở khóa chiếc xe nôi và cùng nhau cất bước về phía
Hovslagargatan. Đến đó họ lại dừng.
“Ở đây sáng hơn một chút. Đầu tiên chúng ta phải kiểm tra xem tranh
có bị hư hại không. Bà có găng tay chứ, Christina?”
“Đôi găng màu trắng ở trong túi ấy. Tôi phải bế Malin. Nó cần được
thay tã nữa.”
“Biết mà!”
Martha lôi đôi găng tay ra, đeo vào và bắt đầu xé giấy bọc. Nó được
bọc vài lượt quanh bức tranh và khó bóc hơn bà hình dung. Nhưng khi nhìn
thấy chiếc khung mạ vàng tỏa sáng từ một góc, bà bừng lên vui sướng.