Hai người cảnh sát rất cao, cả hai đều ở tuổi trung niên. Một người có bộ ria
mép màu trắng tỉa sát đến độ trông hơi có vẻ đáng sợ. Người kia có những
nếp nhăn rõ, hằn sâu trên mặt khiến tôi luôn liên tưởng đến những bác nông
dân - kiểu nếp nhăn hình thành do lái máy cày trong gió mùa thu ngày này
qua ngày khác suốt một thời gian. Áo khoác của họ cài nút chỉn chu để
chống lại cái lạnh tháng ba, cổ áo dựng lên quanh cổ. Khi người thực hiện
phần lớn cuộc nói chuyện tối hôm đó - người có bộ ria mép - nhận thấy mẹ
tôi và tôi đang tiến đến lối đi sau lưng bố tôi, ông ta bỏ chiếc mũ cảnh sát
rộng vành ra, và viên cảnh sát kia lập tức làm giống như vậy. Họ gật đầu
chào mẹ tôi như đã quen biết bà, và tôi có ấn tượng họ có lẽ đã gặp bà ở nhà
Bedford sáng hôm đó.
Lúc đó mới hơn sáu giờ ba mươi, đèn hiên nhà chúng tôi đã bật sáng: Thỉnh
thoảng nó làm cho phù hiệu trên áo khoác của họ lấp lánh.
“Trong trường hợp đó, các ông có cần vào nhà không?”
“Chúng tôi cần đấy. Nhưng chỉ vài phút thôi.”
Bố ra dấu cho họ vào nhà, và họ cẩn thận chùi đôi giày đen bóng lên tấm
thảm gần bậc tam cấp. Tôi cố nhắc bản thân rằng hai người đàn ông uy
nghiêm này không phải là người xấu, tập trung suy nghĩ vào cách nói
chuyện tử tế của người có ria mép dành cho bố tôi. Họ đều đeo nhẫn cưới,
có nghĩa là họ đã có vợ, và nếu họ có vợ, có lẽ họ đã có con. Và nếu họ có
con, thì chính họ cũng là những ông bố. Cũng giống bố tôi. Cởi mũ và bao
súng, bỏ súng và áo khoác màu xanh ra, họ cũng chỉ là những người đàn
ông trung niên bình thường mà thôi. Chẳng có lý do gì tôi phải sợ họ.
Nhưng dĩ nhiên tôi sợ họ.
“Tôi là Trung úy Leland Rhodes,” người có ria mép bắt đầu, “còn đây là Hạ
sĩ Richard Tilley.”
“Rand Danforth,” bố tôi nói, chìa tay ra với Rhodes trước rồi sau đó với
Tilley. Khi bố quay lại, ông thấy mẹ và tôi đang đứng ở lối đi sau lưng ông.