“Một chút, con nghĩ thế.”
“Có ai gọi cho mẹ con không?”
“Vài người.”
“Bạn hay nhà báo?”
“Cả hai.”
“Được rồi. Khi làm việc xong với ông Hastings, bố mẹ còn ghé qua một nơi
nữa. Vì dù sao bố mẹ cũng đang ở Burlington, nên bố mẹ sẽ đến bệnh viện
để chụp X quang mắt cá chân mẹ con.” Ông đã cố gắng giảm nhẹ tầm quan
trọng của chuyến đi bệnh viện, ngụ ý họ có thể cũng chẳng bận tâm chụp X
quang nếu họ không ở Burlington, nhưng khó mà nói giảm nói tránh về một
chuyến đi đến phòng cấp cứu.
“Chân mẹ vẫn đau lắm ạ?” tôi hỏi.
“Một chút,” ông nói.
Tôi nghĩ lần duy nhất tôi cử động giữa khoảng thời gian Rollie đi và Tom
đến là khi tôi đứng dậy để xem những tiếng lục đục nhỏ phát ra từ nhà bếp
là gì. Hóa ra đó là một vật báo hiệu độc đáo thường gặp của mùa xuân: Một
chú chim cổ đỏ đã trở về nơi cho chim ăn bên ngoài cửa sổ nhà bếp sau một
mùa đông trốn rét, và cu cậu đang chiến đấu với hình ảnh phản chiếu của
mình trên cửa sổ. Tuy nhiên, chuyến về nhà của chú chim cổ đỏ ngày thứ
bảy hôm ấy chỉ là một sự chọc tức, lại là một thí dụ sống động nữa trong
đầu tôi về sự ngu ngốc của thế giới tự nhiên: Chim đập đầu vào kính, các bà
mẹ chết lúc sinh con.
Trông tôi có lẽ giống như một địa ngục lớp tám đối với Tom khi mở cửa
cho anh. Tôi cũng ăn diện như bất kì đứa con gái gần mười bốn tuổi nào
khác, nhưng thứ bảy hôm ấy tôi chưa kịp chải tóc, và tôi không nhớ là mình
đã chải răng. Tôi chỉ thay quần áo ngay trước khi Rollie đến, nhưng chắc
chắn tôi đã không mặc đẹp để đón Tom Corts. Tôi mặc một chiếc quần