jeans vừa rộng vừa lùng thùng, và một chiếc áo len hippie cũ của mẹ do bà
tự đan. Bà có lẽ đã dùng đến mười một cuộn len, và dù hiệu ứng màu sắc có
mục đích tạo ảo giác, ngay cả mẹ cũng từng nói rằng trông nó quá rối mắt,
giống như do một đứa bé mẫu giáo chọn màu vậy.
Nhưng nếu Tom có phát khiếp vì những gì anh thấy khi tôi mở cửa, anh
cũng kiềm nén sự thất vọng đó. Anh vòng tay qua eo tôi và kéo tôi lại gần,
rồi hôn lên môi tôi vừa nhẹ nhàng vừa giản dị như nụ hôn đầu chúng tôi
trao nhau một năm trước trên lớp bùn của trại ngựa nhỏ nhà McKenna.
Rồi sau đó anh đung đưa tôi một lúc lâu, một sự đung đưa kì cục nhưng
khiến tôi cảm thấy thật hợp lí vào lúc đó. Tôi áp trán vào lớp áo sơ mi vải
bông lộ ra từ áo khoác bông trùm mũ kéo khóa một nửa của anh, cảm thấy
bình yên, nếu không muốn nói hoàn toàn yên tâm. Tôi không nhớ anh đã
tách cơ thể chúng tôi ra và đưa hai người vào trong nhà như thế nào, nhưng
anh đã làm thế mà không khiến tôi khó chịu.
Tôi nhanh chóng nhận ra Tom, cũng như tôi, không biết nên nói nhiều hay
ít về cái chết của cô Bedford hoặc sự dính líu của mẹ tôi. Anh hiểu một cái
ôm sẽ có ích, còn thái độ khi thể hiện thành lời thì anh phải tùy cơ ứng biến
khi đã yên vị.
“Anh họ anh sống trong một cái hố xí,” là những lời đầu tiên anh nói với tôi
sau khi chúng tôi đi vào nhà bếp. “Cha ấy cứng đầu lắm, vì vậy chẳng có
cách nào làm ông ấy đổi ý được. Nhưng mà, trời ơi, ông ấy đã chuyển đến
sống trong một đống rác.”
“Chỗ đó có gì mà tệ vậy?”
“Ngoài hai cửa sổ, mỗi cái to bằng một bìa đĩa nhạc, thì chẳng còn gì sất.
Ngoại trừ chỉ có hai phòng và một phòng tắm, mà sàn nhà tắm thì sắp mục
hết cả ra. Và anh chỉ tìm thấy một cửa hiệu nhỏ ở toàn bộ cái khu chết giẫm
đó.”