nghe nhiệt tình và lặng lẽ. Đôi khi chiếc giường nằm trong phòng ngủ của
họ, đôi khi ở trong bệnh viện.
Tôi có thể viết mà không e dè hay đong đếm rằng ông đã là một người nuôi
bệnh ung thư ngoại lệ: vừa là y tá, vừa là chuyên gia dinh dưỡng, vừa là bạn
đời, vừa là bạn tâm giao. Vừa là Knute Rockne
Nhưng, đương nhiên mẹ tôi không mắc bệnh ung thư vào năm 1981, bà bị
khởi tố vì một trọng tội. Bà bị cáo buộc tước đi mạng sống của một người
khi lẽ ra bà đang hỗ trợ cho sự chào đời của một người khác.
Vì thế, mẹ tôi không cần một y tá hay chuyên gia dinh dưỡng hay người
nuôi bệnh ung thư, bà cần một luật sư. Do đó tôi nghĩ vai trò người chăm
sóc đặt lên vai của Stephen Hastings thay vì trên vai của bố tôi cũng là
chuyện bình thường, và bố chẳng qua là ghen tị mà thôi: Ông muốn giúp.
Ông muốn được gánh trách nhiệm. Ông muốn có thêm việc để làm.
Tôi cẩn thận quan sát bố mẹ vào buổi tối Stephen ghé qua để báo tin, và rõ
ràng mẹ tôi đã không nhận ra những tin tốt ông đem đến sau những tin xấu.
Chắc chắn bà đã cảm thấy nhẹ nhõm vì nhiều khả năng chính quyền bang sẽ
khởi tố bà tội bất cẩn gây chết người thay vì giết người cấp độ hai, nhưng
thông tin này đã bị che mờ trước ý nghĩ rằng bà sẽ phải dừng công việc đỡ
đẻ trong một khoảng thời gian. Có thể là mãi mãi.
Ngẫm lại, tôi nhận ra phản ứng của mẹ lẽ ra không nên khiến tôi ngạc
nhiên: Một tội danh hình sự là một điều trừu tượng đối với bà, một điều bà
không thể hiểu tường tận. Nhưng nghề bà mụ là sứ mệnh của bà, đó là việc
bà đã được chọn để làm trong đời. Chính ý nghĩ phải chấm dứt hành nghề -
dù chỉ tạm thời - khiến bà lo lắng hơn nhiều so với tin tức của vị luật sư về
tội trạng giảm nhẹ.
“Em phải làm sao, nói với một người như May O’Brien rằng em không thể
giúp cô ấy sinh con ư?” bà hỏi bố tôi đêm hôm đó trong lúc lấy nĩa ghim
thức ăn trên đĩa.