“Không, số tôi đỏ lắm,” ông Patterson nói với luật sư bang. Ông ta có thân
hình vạm vỡ, mặc một chiếc áo cổ lọ và áo len màu xanh bó sát vào cơ thể
như lớp da thứ hai, ngồi khoanh tay thủ thế trước ngực một cách ngạo nghễ.
“Thời gian ông ở Thái Bình Dương: Đó có phải là lý do ông nói ông có ít...
lòng kiên nhẫn với những người từng phản đối cuộc chiến ở Việt Nam
không?”
“Không. Ngay cả khi tôi không có cơ hội phụng sự tổ quốc, tôi vẫn mong
những người khác sẽ bước lên khi được yêu cầu. Và chúng ta đều biết rất
nhiều người đã không bước lên.”
“Bước lên.”
“Đúng thế.”
“Vào thập niên sáu mươi và đầu thập niên bảy mươi.”
“Vâng.”
“Giả sử có một nhân chứng mà ông không thích, thưa ông Patterson. Theo
quan điểm cá nhân. Ông có thể công bằng được không?”
“Ý ông là sao?”
“À, ví dụ như bên bị hoặc bên nguyên có một người làm chứng nói điều
khiến ông phật ý. Liệu ông có lắng nghe lời làm chứng của họ với thái độ
cởi mở không?”
“Có chứ. Có vẻ như tôi sẽ làm được. Đó là nhiệm vụ của tôi,” ông Patterson
nói, nhưng trước khi ông kịp nói hết câu, tôi biết Stephen sẽ gạch một
đường ngang tên ông ta.
Khi rời phòng xử án để ăn trưa, chúng tôi đi qua một hàng phụ nữ ngồi ở
băng ghế phía sau đang chuẩn bị cho con bú. Những đứa bé nhỏ nhất không
phải do mẹ tôi đỡ đẻ, vì bà đã dừng hành nghề gần sáu tháng trước. Nhưng
có hai đứa bé ở đó được mẹ tôi đỡ đẻ khoảng vài tuần hoặc vài tháng trước