khi Charlotte Bedford chết, những đứa trẻ sơ sinh lớn hơn, đâu chừng sáu
đến chín tháng tuổi. Tôi nhìn chúng bú mẹ một lúc trước khi phát hiện ra
một điều còn thú vị hơn nữa: Một số nhà báo, ngay cả nhà báo nữ, đang cố
hết sức để nói chuyện với các bà mẹ cho con bú trong thời gian nghỉ giải
lao mà không để cho mắt nhìn xuống dưới trán của các bà mẹ. Trông như
họ đang cố phỏng vấn bức tường phía sau các bà mẹ ấy.
Mẹ tôi ăn trưa với bánh mì quế nướng và chocolate nóng trong một nhà
hàng, bà khăng khăng muốn chúng tôi ghé qua cửa hàng hoa trên đường
Main Street để ngắm các vòng hoa mùa thu treo ở đó. Khi nói chuyện, bà
nhắc đến khung cảnh mùa thu năm đó, và những hàng xe mang biển số
bang khác đỗ ở một số điểm dọc các con đường thôn quê. Bà nghĩ lá phong
có màu đỏ rực rỡ hơn bình thường, và rõ ràng điều đó khiến bà vui thích.
Stephen và nhóm thuộc hạ nhỏ của ông không bao giờ rời khỏi phòng xử,
ngoại trừ luật sư tập sự có tên Laurel. Cô ấy cùng chúng tôi đi ăn trưa, và
dường như trách nhiệm chính của cô là giúp chúng tôi chen qua đám nhà
báo và tươi cười nói với họ rằng chúng tôi chẳng có gì để nói.
“Tôi nghĩ nhà mình đang làm rất tốt,” cô ấy nói khi chúng tôi đứng lại một
lúc bên vệ đường phía ngoài cửa sổ kính của tiệm hoa. “Tôi nghĩ mọi người
thể hiện rất tốt hình ảnh một gia đình.”
Bà ngoại cười tươi còn mẹ tôi gật đầu, như thể nhận ra ý nghĩa lớn lao trong
câu bình phẩm của Laurel. Mẹ mỉm cười với cô luật sư tập sự, nụ cười
thường trực trên khuôn mặt bà như những nếp nhăn mới xuất hiện trong
nửa năm qua - một nụ cười vừa mang tính hoài nghi vừa mang tính kiên
nhẫn. “Chà, cô biết đấy,” mẹ nói, giọng của bà cực kì nghiêm túc, “chúng
tôi đã phải mất rất nhiều năm mới có được hình ảnh đó.”
Một lần, nhiều tuần trước, tôi đã nhìn trộm từ cửa sổ phòng ngủ của bố mẹ
cảnh mẹ đón Stephen khi ông ta đến nhà chúng tôi vào cuối ngày. Tôi đã
nghe thấy tiếng xe đỗ lại trong đường chạy xe vào nhà, và thế là tôi đặt bài
tập về nhà qua một bên rồi đi xuyên qua nhà, đến một trong những căn