phạt trước mắt.
Tôi có thể nhận thấy điều đó khi cô ta vừa đến tòa vào chiều thứ sáu, chỉ
ngay sau khi tất cả chúng tôi đứng dậy để chào bồi thẩm đoàn và thẩm phán
rồi an tọa. Cô ta tiến về bục nhân chứng, cẩn thận nhìn thẳng về phía trước,
nhưng tôi vẫn thấy được sự căm ghét cô ta dành cho chúng tôi rực lên trong
đôi mắt đen tròn của cô, và cách cô ta chĩa cằm về phía chúng tôi.
Cô ta và mẹ tôi chưa nói chuyện với nhau kể từ khi họ rời bệnh viện ở
Newport vào buổi sáng thứ sáu trong tháng ba; họ đã không nói một lời nào
với nhau. Tôi quan sát mẹ nhìn Anne khi cô ta được một nhân viên tòa án
hướng dẫn đi băng qua trước phòng xử án và đọc lời tuyên thệ, và có vẻ
như mẹ tôi đang lần đầu tiên nhìn thấy một người chị em sinh đôi mà bà
không biết là có tồn tại, hay một con thú lạ và đáng sợ trong sở thú - loại
sinh vật có thể khiến người ta bỏ chạy hoặc co rúm người lại nếu không có
những song chắn bằng thép. Mẹ tôi chậm rãi xoay ghế để có thể nhìn trực
diện Anne, và đó là một trong số hiếm hoi lần trong phiên tòa tôi thực sự
thấy bà thì thầm với Peter và Stephen khi cơn choáng váng vì nhìn thấy
Anne cuối cùng cũng đi qua.
Mẹ tôi trông có vẻ lúng túng hơn là giận dữ. Thỉnh thoảng bà khẽ lắc đầu,
một cử chỉ nhỏ như để hỏi Anne: Tại sao cô làm chuyện này với tôi?
Giọng nói của Anne mang một chút âm giọng Boston mà tôi không còn nhớ
kể từ mùa đông, và nó khiến cô ta có vẻ mạnh mẽ hơn, uy quyền hơn. Cô ta
nhỏ bé và trông có vẻ mệt mỏi, nhưng cô gái này - chỉ lớn hơn tôi tám tuổi -
ngồi thẳng lưng và nói năng mạch lạc, kể với bồi thẩm đoàn bằng giọng
chừng mực về những điều khủng khiếp mà cô đã chứng kiến, và mẹ tôi đã
dùng một con dao bếp để mổ phanh bụng của một người sống ở Lawson
như thế nào.
Chính trong buổi cung khai của Anne, bồi thẩm đoàn bắt đầu cảm thấy khó
chịu, và bắt đầu liếc mắt nhìn mẹ tôi. Dù Anne cung khai vào buổi chiều
khi phiên tòa đã diễn ra được năm ngày, tức là vào thứ sáu đầu tiên của