lệ. Bà vẫn đẹp và mạnh mẽ như mọi khi, dù suốt tuần qua phải ngồi ủ rũ
trong phòng xử án: Mái tóc bạc dày của bà lại sáng bóng như kim loại mới,
nhưng trông vẫn mềm mượt như lụa cashmere, còn đôi mắt bà mở to vui vẻ
khi trông thấy chúng tôi.
Bà vòng tay ôm tôi trước, sau đó mới chào mẹ tôi, như thể đang thực hiện
một lựa chọn thứ tự tình cảm theo bản năng.
“Cháu gầy quá, cả ngôi sao trên đường chạy cũng không gầy như cháu,” bà
thì thầm vào tai tôi.
“Bác cũng thế mà ạ,” tôi đáp.
Khi những bà mụ khác thấy chúng tôi về đến, cùng với bạn, chồng và một
số người với con cái, họ bắt đầu vỗ tay chào mẹ tôi. Cheryl choàng tay qua
vai mẹ rồi dẫn bà vào phòng ăn trong khi bố và tôi đi theo phía sau. Đột
nhiên có một người đã dừng vỗ tay để đưa mẹ tôi một ly rượu vang và bố
tôi một ly rượu scotch, và một người khác đưa tôi một ly nước ngọt mát
lạnh. Tôi ngước lên để cám ơn người đã đưa ly nước cho tôi, và nhận ra đó
chính là Tom Corts.
“Em muốn uống bia thay nước ngọt không? Sẽ chẳng ai quan tâm đâu,” anh
nói, vỗ vai tôi một cách vừa dễ thương vừa kì lạ.
“Sao anh biết chuyện này?”
“Bác Cheryl bạn của mẹ em gọi điện thoại đến gặp mẹ anh,” anh trả lời, chỉ
tay về phía bà mụ luống tuổi.
Tôi nhìn bà âu yếm ôm mẹ tôi bằng cả hai tay, và nhìn nụ cười mà bà đã
làm hiện ra trên khuôn mặt mẹ tôi - một nụ cười rạng rỡ mà chúng tôi hiếm
khi thấy trên mặt mẹ gần đây - và những giọt nước mắt mà tôi kiềm nén từ
khi rời tòa án bắt đầu chảy xuống hai gò má tôi. Tiếng khóc của tôi lúc đó
hoàn toàn lặng lẽ, và trong sự hỗn loạn và hân hoan tràn ngập căn phòng,
không ai ngoài Tom nhận ra tôi đang khóc.