cỏ, nhưng anh không ở một mình, vì thế tôi lê bước thẳng tiến đến cửa
hàng. Kẹo cao su và kẹo bạc hà nằm trên kệ kim loại đối diện quầy tính tiền
bằng gỗ mà John Dahrman thường ngồi ở phía sau ngày này qua ngày khác,
một ông già góa vợ trầm lặng có mái tóc bạc trắng và đôi mắt sâu hoắm như
hai hốc mắt ma quái của Abraham Lincoln trong các tấm ảnh chân dung in
đầy chương Nội chiến trong sách giáo khoa lịch sử của tôi. Dù tóc bạc trắng
và mắt thâm quầng, nhưng da của ông rất mềm mại, và lúc đó tôi đã tưởng
tượng rằng ông phải trẻ hơn rất nhiều so với hình dung ban đầu của mọi
người. Ông đã sở hữu cửa hiệu này ít nhất là từ khi tôi ra đời và nhận thức
được về những điều như mua bán và kẹo cao su, được một lô lốc những
cháu trai cháu gái phụ giúp ở quầy tính tiền khi chúng đã lớn và biết làm
phép tính.
Khi tôi đang trả tiền kẹo cao su, thất vọng não nề vì không thể tiếp cận
phạm vi ba mươi mét quanh đối tượng làm tôi phát cuồng, thì tôi nghe thấy
tiếng chuông leng keng trên cửa. O’Gorman và Billy Metcalf đang tiến về
phía tủ lạnh có bia ở cuối cửa hàng. Họ chưa đủ tuổi để mua bia, nhưng
trước đây tôi từng thấy họ đứng lảng vảng ở đó và dán mắt vào lốc sáu chai
bia sau cửa kính, lớn tiếng bàn tán xem họ uống được bao nhiêu và nên mua
hiệu nào khi đã đủ tuổi. Cuối cùng ông Dahrman thường tống cổ họ ra
ngoài hoặc lùa họ đến dãy hàng có bán khô bò và bánh phô mai phồng nhân
tạo, những sản phẩm họ cảm thấy cũng thú vị chẳng kém gì bia mà lại được
pháp luật cho phép mua.
Tôi chờ Tom Corts bước vào sau họ, nhưng không thấy. Tôi nghĩ như thế có
nghĩa là anh đã về nhà, nhưng vẫn nuôi hi vọng mong manh rằng anh đang
ở ngoài sân bóng một mình, và nếu tôi đi nhanh, tôi có thể có chút thời gian
với anh trước khi O’Gorman và Metcalf quay lại với mớ thức ăn Slim Jim
và Jax. Tôi không thể hình dung được khi ấy mình sẽ làm gì, bởi phần lớn
những cuộc giao tiếp của tôi và Tom cho đến lúc đó chỉ là những lời chào
gói gọn vào lòng bàn tay khi chúng tôi vẫy nhau.