Vì thế bà dừng lại. Bà đỡ đẻ đứa bé cuối cùng vào một buổi chiều đầy nắng
đầu tháng mười một, sau một cơn chuyển dạ khó nhọc nhưng ngắn ngủi, và
nhìn chung không gặp sự cố gì. Bà kịp về nhà để ăn tối, bố, mẹ và tôi ăn tối
cùng nhau. Chúng tôi biết đó là ca đẻ cuối cùng, và bố đã nâng ly chúc
mừng mẹ và tất cả những điều đẹp đẽ mà bà đem đến cho cuộc đời này.
Trong một thời gian ngắn, một tin đồn lan truyền ở Vermont rằng mẹ tôi đã
bỏ nghề nghiệp mà bà yêu quý vì một thỏa thuận nào đấy với Asa Bedford.
Tin đồn nói rằng cả ông lẫn gia đình Fugett đều sẽ không xúc tiến một vụ
kiện dân sự gây chết oan chống lại mẹ tôi nếu bà đồng ý bỏ nghề bà mụ,
nhưng không hề có một thỏa thuận nào cả.
Mục sư Asa quyết định không tiến hành kiện dân sự gần như lập tức vì -
như ông được dẫn lời trong một bài báo - ông “không quan tâm đến giá trị
tính bằng tiền của mạng sống Charlotte.” Vả lại, Mục sư Asa là một người
tốt và là một mục sư: Ông biết cũng như mọi người đều biết sự trả thù thực
sự thuộc về ai.
Dù sao đi nữa, mẹ tôi đã không bao giờ đỡ đẻ sau ca đẻ cuối cùng vào tháng
mười một đó. Chính xác như bà đã nói với mẹ của mình, bà tháo những tấm
áp phích thai phụ xuống và dán các bức tường ở nơi từng là phòng làm việc
của bà bằng giấy dán tường in hình hoa diên vĩ xanh. Sau đó bà đọc sách
trong căn phòng ấy, may chăn trong căn phòng ấy, và tôi biết khi căn nhà
yên tĩnh, bà ngồi một mình trong căn phòng ấy ngắm nhìn những rặng núi
xa xa. Trong vài năm sau bà viết nhật kí trong căn phòng ấy.
Và rồi, đột nhiên bà cho những quyển sổ vào hộp và đem chúng lên cất ở
gác mái. Khi về nhà trong đợt nghỉ Giáng sinh ở năm đầu tiên học cao
đẳng, tôi tìm trong phòng đọc sách của bà và phát hiện các quyển sổ đã biến
mất, kệ sách giờ đây chất đầy sách làm vườn và tạp chí trang trí nhà cửa.
“Con có biết mẹ cất những quyển sổ ở đâu không?” mẹ hỏi tôi khi chất độc
nhỏ giọt vào tay bà.