nghiệt, tín hiệu truyền hình kém, và mật độ dân cư thưa thớt (điều này có
thể giải thích vì sao bà không bao giờ thực sự tìm cách bỏ trốn đến những
nơi như San Francisco, East Village, hoặc Woodstock), vì thế phải dành
đáng kể sự quan tâm tìm hiểu và lòng can đảm mới tìm ra cuộc cách mạng
ấy - hoặc thậm chí tìm ra một chiếc váy bohemian tử tế.
Dù mẹ chưa bao giờ thực sự đặt chân lên một chiếc xe buýt đưa đón học
sinh hay vào công xã, nhưng những bức ảnh chụp bà trong nửa sau thập
niên 1960 cho thấy một cô gái yêu thích quần ống loe và khăn choàng,
chuỗi hạt tình yêu, huy hiệu và dép xăng đan. Những tấm ảnh đó cho thấy
một cô gái có đôi mắt tròn xoe xanh biếc và mái tóc vàng sậm xoăn tít,
những đặc điểm mà tôi thừa hưởng, dù tóc tôi thẳng hơn tóc bà nhiều.
Bà đến học ở trường cao đẳng Mount Holyoke trong hai năm, nhưng đã gặp
một người đàn ông khá lớn tuổi hơn trong thời gian làm bồi bàn ở Cape
Cod vào mùa hè giữa năm hai và năm ba rồi quyết định bỏ học, trải qua
mùa đông trong một căn nhà thôn dã với ông ở miền biển. Mối quan hệ này
không kéo dài. Đến Lễ Tạ ơn bà đã dọn đến Jamaica Plain ở Boston, giúp tổ
chức Những Con Báo Đen khởi xướng một chương trình bữa ăn sáng cho
người nghèo, trong khi làm thêm bằng nghề trực điện thoại cho một tờ báo.
Đến mùa xuân, bà cảm thấy đã quá đủ - không phải vì bà mệt mỏi với
Phong trào này, mà bởi vì bà nhớ đồng quê. Nhớ Vermont. Bà muốn về nhà,
và cuối cùng đã về.
Bà trở về ngay trước sinh nhật thứ hai mươi của mình, nói với bố mẹ rằng
bà sẽ ở đến hết mùa hè rồi sau đó đi học lại vào mùa thu. Ông bà ngoại tôi
luôn quả quyết rằng mẹ đã bỏ học khi điểm số rất tốt, toàn A và B, và
trường Mount Holyoke sẽ vui mừng nhận bà vào học lại.
Nhưng tôi không tin việc trở lại trường cao đẳng là khả thi. Bà đã hình
thành trong lòng một cảm giác rất phổ biến lúc bấy giờ, đó là chán ghét hầu
hết chính quyền truyền thống hoặc học viện, và Mouth Holyoke đã trở nên
đáng nghi trong mắt bà. Vả lại, đến tháng bảy bà đã gia nhập một nhóm