đó có ít tiền hoặc kĩ năng làm mộc đang cố hết sức để giữ nó ngăn nắp. Cỏ
mọc cao trong bãi cỏ nhỏ bao bọc quanh ngôi nhà, trông như chưa được cắt
vào mùa xuân năm đó (Ngày lễ Tưởng niệm
tuần), nhưng ai đó đã đặt những phiến đá xanh hình vuông trên lối đi từ con
đường đất đến cửa trước chỉ mới đây thôi, đến nỗi tôi có thể thấy dấu bàn
tay người ấn thẳng xuống đất tại mép các phiến đá. Hai cửa sổ ở tầng thứ
nhất của ngôi nhà có những vết nứt dài được dán lại bằng bột matit trắng,
nhưng sau khung cửa là những tấm rèm bằng ren trang nhã. Nhiều tấm ván
đã mục, nhưng những cây đinh đóng xuyên qua chúng để giữ chúng dính
vào các bức tường bên ngoài còn mới đến độ bốn mặt ngôi nhà lấp lánh
những đốm bạc nhỏ.
Đó là một ngôi nhà hình hộp hai tầng gọn ghẽ, góc mái nhà rộng và thanh
nhã, tường sơn màu vàng hoa thủy tiên. Lớp sơn đã bắt đầu bong tróc,
nhưng vẫn đủ sáng để khi Mục sư Bedford khởi động xe chở Rollie và tôi
về nhà tối hôm ấy, ánh sáng từ đèn pha khiến ngôi nhà tỏa màu lưu huỳnh
rực rỡ.
Vào ngày thứ bảy, tôi gặp ba người nhà Bedford - Foogie vào cuối buổi
chiều và vợ chồng Mục sư lúc gần mười giờ tối - chùm tế bào sẽ trở thành
Veil (đọc là Vel với lý do mà tôi nghĩ chỉ có Mục sư Asa mới hiểu hết) còn
chưa tồn tại, nhưng sẽ hình thành không lâu sau đó.
Bất kể Mục sư Asa che giấu trong người nỗi sợ hay sự phấn khích gì, điều
đó thường không biểu hiện trên nét mặt ông. Khuôn mặt ông tròn trĩnh
giống như tròng mắt kính ông đeo, còn mái tóc thì đã lùi lại xa trên đầu; tuy
thế, phần tóc còn lại rất dày và có màu nâu đỏ. Hầu như lần nào tôi cũng
thấy ông mặc áo sơ mi trắng là thẳng thớm, cài nút chỉn chu. Giống như bố
tôi, ông là mẫu người mà tôi hình dung rằng khá gầy khi còn trẻ, nhưng giờ
đã phát tướng và nặng nề hơn ở tuổi trung niên.
Trông ông giống kiểu doanh nhân nông thôn mà tôi thường thấy ở St.
Johnsbury hoặc Montpelier: kém tinh tế, ít nhất là trong mắt tôi, so với