chân đi giày cao cổ, nhịp bước đều trên những con phố nhỏ lát đá,
nhà hai bên san sát, mái lợp ngói đá xanh rất thanh bình. Đó là mùa
hè xa xứ đầu tiên của tôi, một gã trẻ tràn đầy hạnh phúc với tình yêu
của cô gái Anh Quốc và ham muốn tìm hiểu thế giới mới mẻ xung
quanh. Đó cũng là lần hành quân cuối cùng chúng tôi đội nón. Ở
Macédonie người ta thu hết nón và quạt giấy, rồi họ phát cho chúng
tôi mũ beret.
Những người lính Annam nhờ tôi viết thư về nhà thường kể: “Ở đây
chúng con chơi trò chiến tranh với những quả bóng biết bay to đùng
ở trên đầu.“ Tôi thường phải giải thích cho họ đấy là những quả
bóng thám không có người điều khiển. Ngay cả tôi cũng tò mò về
những chiếc máy bay. Tháng Bảy năm ấy, ở ngoại ô Thesaloniki,
người ta làm lễ rửa tội cho những chuyến bay quân sự đầu tiên của
tướng Sarrail, tôi được chọn làm người phụ lễ. Đấy là lần đầu tiên
tôi đến gần một chiếc tàu bay.
Cũng năm đó, tập đoàn quân Phương Đông của tướng d'Espere
không tham chiến nhiều. Hồng Thập Tự chúng tôi nhàn hạ với việc
chăm sóc người tị nạn Serbie nên họ gọi chúng tôi đến sân bay để
làm lính thợ.
Ở sân bay ngoại ô, tôi bắt đầu học thêm nghề điện và cơ khí, một
nghề giúp tôi rất nhiều vì mấy tháng sau tôi được giao vào đơn vị
chế tạo mìn và gài mìn xung quanh cứ điểm Topsin ở phía bắc
Thessaloniki. Khi chúng tôi nhận nhiệm vụ Topsin thì đã vào tháng
Giêng năm 1917. Tiết trời ban đêm rất lạnh, tôi vẫn nhớ mình phải
bò thử trên nền đất cứng để thăm dò khả năng kẻ thù chạm vào kíp
mìn.
Đến đây chắc cậu Sanh cũng đoán ra phần nào câu chuyện anh Học
nói với tôi.