Chúng tôi đi dọc con đường bên nghĩa trang, rồi tạt ngang
quảng trường Chợ. Những chiếc đu quay nhô lên không trung mù
mịt như những ngọn tháp âm nhạc lộng lẫy đang quay vù vù, bánh
xe quỷ chói lọi trong sắc đỏ sẫm, sắc vàng và tiếng cười, còn mê
cung thì lập lòe những ngọn lửa xanh.
“Mê cung được chúc phúc!” tôi nói.
“Vì sao?” Pat hỏi.
“Chúng mình từng cùng vào đó mà”.
Nàng gật.
“Em có cảm giác chuyện đó diễn ra từ thưở nào rồi”.
“Chúng mình lại vào đó nhé?” nàng hỏi.
“Không”, tôi nói. “Giờ thì thôi. Em muốn uống chút gì chăng?”
Nàng lắc đầu. Trông nàng tuyệt vời. Sương mù như một làn
hương mỏng khiến nàng càng rạng rỡ hơn.
“Em cũng không mệt chứ?”, tôi hỏi.
“Không, chưa mệt”.
Chúng tôi đến bên những ngôi lều có những chiếc vòng treo trên
móc. Trước lều lủng lẳng những chiếc đèn với ngọn lửa trắng cháy,
phùn phụt bằng khí cacbua. Pat nhìn tôi. “Không”, tôi nói, “hôm
nay anh không ném đâu. Một vòng duy nhất cũng không. Dù có
được cả hầm rượu vang của Alaxandre Đại đế”. Chúng tôi bước
tiếp, băng qua quảng trường, xuyên những vườn cây thành phố.
“Hẳn cây hoa thụy hương phải quanh quẩn đâu đây”, Pat nói.
“Ừ nghe hương của nó từ xa đưa lại, bay qua thảm cỏ. Thơm
lắm. Phải không?”
Nàng nhìn tôi. “Có thế thật”, nàng nói.
“Hẳn nó đã nở rộ. Giờ thì hẳn cả thành phố ngửi thấy”. Tôi thận
trọng đưa mắt tìm hai bên xem có còn ở đâu một ghế băng trống.