Nhưng chắc do cây hoa thụy hương, do ngày Chủ nhật, hoặc do
chính chúng tôi, mà tôi chẳng kiếm được chiếc ghế thừa nào. Mọi
ghế đều có người ngồi. Tôi nhìn đồng hồ. Đã quá nửa đêm. “Đi em”,
tôi nói, “lại đằng anh… chúng mình sẽ được ngồi riêng với nhau”.
Nàng không đáp, nhưng chúng tôi quay trở lại. Khi đi ngang
nghĩa trang, chúng tôi bắt gặp một chuyện không ngờ. Đội quân
Cúu rỗi đã kéo viện binh đến. Dàn hợp xướng giờ đây phình ra
những bốn hàng. Không chỉ có các bà xơ mà thêm hai hàng nam,
mặc đồng phục. Bài ca không chỉ cất lên the thé với hai bè nữ mà tận
bốn bè, vang như một cây đàn oóc. Tiếng hát oang oang trên những
tấm bia mộ trong nhịp valse. “Jesusdalem thánh dịa…”
Không còn nghe phe hát đối lập lên tiếng. Các ông tướng đã bị
quét bay khỏi đó.
“Kiên nhẫn”, ngài Himmelemann, hiệu trưởng trường đại học
của tôi trước kia vẫn luôn nói, “kiên nhẫn và siêng năng còn hơn là
thiên tài mà buông thả…”
Tôi mở cửa, do dự giây lát. Rồi tôi bật đèn. Hành lang như một
đường ống há hoác ra, vàng vọt và ghê tởm. “Nhắm mắt lại em”, tôi
khẽ bảo Pat, “cảnh tượng này chỉ thích hợp với những hệ thần kinh
chai cứng”.
Bế bổng nàng lên, tôi thong thả bước những bước bình thường,
như thể không hề có nàng trên tay, qua đống hòm xiểng và bếp cồn,
đến tận buồng mình.
“Kinh quá phải không?” tôi ngượng ngùng nói, mắt dán vào bộ
ghế nhung chềnh ềnh trước mắt chúng tôi. Phải, giờ đây tôi thiếu
đứt đôi ghế bành bọc gấm của bà Zalewski… tấm thảm, chiếc đèn
bàn của Hasse… “Chẳng có gì kinh cả”, Pat nói.
“Có đấy, có đấy”, tôi đáp, và lại bên cửa sổ. “May mà còn cảnh
đẹp bên ngoài. Có lẽ ta kéo ghế ra đây chăng”.