Tôi đi vào khu vườn có cây thánh giá. Cả khu vườn chìm trong
ánh sáng xám nhờ. Những bụi hồng ướt đẫm nước mưa, nhưng
phần lớn vẫn đâm hoa. Áo mưa của tôi khá rộng thành thử có thể
giấu kín những cành hồng vừa cắt. Mặc dù đang là sáng Chủ nhật,
không một bóng người qua lại. Tôi ôm những cành hồng đầu tiên ra
xe không gặp chút trở ngại nào, đoạn trở lại lấy ôm thứ hai. Tôi vừa
kịp giấu nó vào vạt áo mưa thì nghe tiếng bước chân ai trên con
đường vườn. Kẹp chặt ôm hồng trong tay, tôi đứng sững trước một
trong những bức phù điêu họa bài kinh rôze, như thể đang cầu
nguyện.
Tiếng bước chân đến gần, nhưng không đi qua mà dừng lại. Tôi
cảm thấy bức bối. Tôi đắm mình vào bức phù điêu, làm dấu thánh,
rồi thong thả đi sang bức khác xa con đường hơn. Bước chân theo
tôi vã lại dừng lại. Tôi không biết nên làm gì. Đi tiếp ngay thì không
thể được, tôi phải đứng im ít nhất đủ để đọc mười lần bài kinh Kính
mừng Đức Mẹ và một lần bài kinh Lạy Cha. Nếu không, tôi sẽ lập
tức bị lộ tẩy. Cứ đứng thế, tôi ngoái nhìn để xác định cái gì đang
diễn ra, thận trọng, với một vẻ mặt làm ra vẻ khó chịu, như thể bị
quấy rầy trong khi đang mê mải trong đức tin.
Nhìn vào gương mặt tròn trịa, niềm nở của người mục sư, tôi thở
phào. Tôi tin rằng mình đã thoát, bởi tôi biết ông sẽ không phá rối
mình trong lúc cầu nguyện… vừa hay tôi nhận ra mình đã rủi ro
bước tới đúng bức phù điêu cuối cùng. Dù có cầu kinh dềnh dàng
đến đâu, vài phút nữa tôi cũng phải xong, và đó hình như chính là
điều ông mục sư đang đợi. Cứ tiếp tục vờ vịt thế này chẳng ích gì,
tôi bèn thản nhiên thong thả đi về phía lối ra.
“Chào con”, vị linh mục nói. “Sáng danh Jesus Krist!”
“Đời đời, amen!”, tôi đáp. Đó là lời chào nơi đất thánh của
những người Thiên Chúa giáo.