cúi nghiêng về phía trước, tôi cảm giác như có cái gì đó thoáng lướt
trên nét mặt ông. “Con hãy tin”, ông nói. “Cha ở trên trời luôn ra tay
cứu vớt. Bao giờ Người cũng cứu vớt, cho dù đôi khi chúng ta
không hiểu điều đó”. Đoạn ông gật đầu chào tôi và quay gót.
Tôi nhìn theo vị linh mục cho tới khi nghe tiếng cánh cửa sập lại
sau lưng ông. Phải, tôi nghĩ, giá cứ đơn giản được như thế! Người
cứu vớt, luôn luôn cứu vớt! Nhưng phải chăng Người đã cứu vót
Bernard Wiese khi cậu ấy nằm gào thét trong rừng Houthoulst với
một viên đạn xuyên thủng bụng, phải chăng Người đã cứu vớt
Katczinsky khi anh ấy ngã xuống ở Handzaeme, bỏ lại chị vợ ốm
yếu và đứa con chưa một lần thấy mặt. Người đã cứu vớt Muller,
Leer và Kemmerich chàng, đã cứu vớt cậu Friedmann bé nhỏ và
Jurgens và Berger và hàng triệu triệu người chăng? Mẹ kiếp, đã có
quá nhiều máu chảy trên thế gian này vì cái dạng đức tin như tin
vào Cha ở trên trời này!
Tôi đưa hoa về nhà, đoạn đánh xe trở lại xưởng rồi đi bộ về. Từ
bếp đưa ra mùi cà phê mới pha thơm phức và tiếng ả Frida khua nồi
xoong xủng xoảng. Kể cũng lạ, nhưng mùi cà phê khiến tôi vui hẳn
lên. Tôi đã nghiệm thấy điều này từ thời chiến tranh… không khi
nào cái an ủi lại là những thứ lớn lao… bao giờ cũng là những thứ
nhỏ nhặt, không đáng kể.
Tôi vừa khóa xong cửa hành lang thì Hasse từ buồng chạy xộc ra.
Mặt ông vàng bủng, sưng húp, cặp mắt thao láo đỏ ngầu, trông ông
cứ như đã mặc nguyên quần áo như thế mà ngủ. Thấy tôi, nét mặt
ông để lộ nỗi thất vọng khôn tả.
“À, thì ra anh”, ông lẩm bẩm.
Tôi sửng sốt nhìn ông. “Mới sớm thế mà bác đã chờ ai à?”
“Phải”, ông khẽ nói, “bà nhà tôi, bà ấy vẫn chưa về. Anh có thấy
bà ấy đâu không?”
Tôi lắc đầu. “Tôi ra ngoài có một tiếng thôi mà”.