Lát sau ông bắt đầu nói, những lời lẽ rối rắm chỉ chứng tỏ ông
đang dao động dữ dội. Rồi ông bắt đầu tự xỉ vả mình. Ông không
buộc tội bà lấy một câu. Ông gắng tự lý giải rằng lỗi là ở ông.
“Bác Hasse”, tôi nói, “bác nói vớ vẩn gì vậy. Trong những
chuyện như thế này làm gì có tội hay vô tội. Bác gái đã bỏ bác mà đi
chứ đâu phải bác ruồng rẫy vợ. Việc gì bác phải tự trách móc mình
như thế!”
“Có đấy”, ông đáp, mắt nhìn đăm đăm vào hai bàn tay. “Tôi đã
không cáng đáng được”.
“Bác bảo gì?”
“Tôi đã không cáng đáng được. Không đủ sức cáng đáng cũng là
một cái tội”.
Tôi sửng sốt nhìn vào cái thân hình bé nhỏ tội nghiệp lùi trong
chiếc ghế bành bọc nhung đỏ. “Bác Hasse”, lát sau tôi bình tĩnh nói,
“đó cùng lắm chỉ là một cái cớ, nhưng không phải tội. Vả lại cho đến
nay bác vẫn cáng đáng được gia đình đấy thôi”.
Ông lắc đầu lia lịa. “Không, không, tôi đã làm bà ấy phát điên
với nỗi sợ mất việc triền miên của tôi. Mà tôi cũng có cáng đáng nổi
đâu! Tôi đã chiều chuộng bà ấy được cái gì nào! Chẳng gì cả…”
Ông chìm đắm trong sự ủ ê câm lặng. Tôi đứng dậy đi lấy chai
cognac. “Ta uống một chút”, tôi nói. “Vẫn chưa có gì mất mát cả”.
Ông ngẩng dầu lên.
“Chưa có gì mất mát”, tôi nhắc lại. “Người ta chỉ mất đi một con
người khi người đó chết mà thôi”.
Ông vội vã gật đầu và cầm lấy ly rượu. Nhưng rồi ông lại đặt ly
xuống mà không hề nhấp môi. “Hôm qua tôi đã được lên trưởng
phòng”, ông khẽ nói. “Kế toán trưởng kiêm trưởng phòng. Ông
Chánh văn phòng bảo tôi tối qua. Tôi được cất nhắc là vì những
tháng vừa rồi tôi luôn làm thêm giờ. Người ta đã sát nhập hai phòng