cánh của loài dơi. Nền trời phía sau nhà công đoàn xanh như một
trái táo non. Bên ngoài, đèn đường đã bật; nhưng trời chưa đủ tối
nên ánh sáng của chúng như run rẩy. Tôi lần dưới chồng sách mảnh
giấy có ghi số điện thoại. Rốt cuộc thì… Tôi có thể thử một lần chứ
sao. Thậm chí tôi đã gần như hứa hẹn sẽ gọi điện cho nàng kia mà.
Đã chắc gì nàng có mặt ở nhà đấy.
Tôi đi ra tiền phòng, nơi đặt máy điện thoại, nhấc ống nghe lên
và xin số. Trong khi đợi trả lời, tôi cảm giác như từ ống loa đen
thoát ra một làn sóng êm ái, một niềm hy vọng sẽ sang. Cô gái có
nhà. Khi cái giọng trầm, hơi đục của nàng đột nhiên cất lên một cách
phi thường trong gian phòng chờ của bà Zalewski - giữa những cái
đầu lợn lòi, hơi mỡ và soong nồi xủng xoảng. - khe khẽ và hơi chậm
rãi như thể nàng cân nhắc từng chữ, thì nỗi bực bội của tôi bỗng
chốc tan biến. Tôi móc lại ống nghe sau khi, thay vì chỉ hỏi cho biết
tin, đã hẹn được với nàng một cuộc gặp gỡ vào ngày kia. Bỗng chốc
mọi thứ đối với tôi không còn u ám như trước. Rõ điên, tôi nghĩ và
lắc đầu. Rồi tôi lại nhấc ống nghe, gọi cho Koster. “Cậu vẫn còn giữ
vé đấy chứ, O o?”
“Còn”.
“Hay lắm. Mình sẽ đi xem đấu bốc với cậu”.
Sau đó chúng tôi còn la cà khá lâu trong thành phố về đêm.
Đường phố sáng sủa và vắng tanh. Những tấm biển quảng cáo nhấp
nháy. Trong các ô trưng bày hàng, đèn cháy rực một cách vô ích.
Trong một gian kính thấy sừng sững các hình nộm trần nhồng
nhộng với những mái đầu tô vẽ lòe loẹt. Trông ma quái và thác loạn.
Bên cạnh, lấp lánh đồ nữ trang. Rồi đến một của hàng lớn tắm mình
trong ánh sáng trắng chẳng khác gì một thánh đường. Các ô kính
ngồn ngộn hàng tơ lụa sặc sỡ, bóng bẩy. Trước rạp chiếu bóng chồm
hổm những hình hài nhợt nhạt, đói ăn. Bên cạnh họ, choáng lộn một
chi điếm của một cửa hàng thực phẩm. Đồ hộp xếp chồng lên nhau
như những ngọn tháp bằng thiếc, những trái táo mềm quý hiếm