thư, một gửi cho vợ, một gửi cảnh sát. Bên cạnh thư gửi vợ con có
một hộp thuốc lá bằng bạc và chiếc nhẫn cưới của ông.
Hẳn ông phải suy nghĩ rất lung và sắp đặt mọi chuyện từ trước;
bởi khắp căn buồng được dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm; khi xem xét kỹ
hơn, chúng tôi còn tìm thấy trên nóc tủ ngăn một ít tiền và một
mảnh giấy đề: Khoản tiền nhà còn thiếu cho tháng này. Để riêng
món tiền này ra, dường như ông muốn tỏ rõ cái chết của mình
không ảnh hưởng gì đến việc trả tiền nhà.
Chuông gọi cửa, hai vị nhân viên nhà nước mặc thường phục
đến. Anh bác sĩ, lúc này đã hạ người chết xuống, đứng dậy. “Chết
rồi”, anh ta nói, “tự sát, không nghi ngờ gì nữa”.
Hai vị nhân viên nhà nước chẳng nói chẳng rằng. Sau khi khép
cửa lại, họ chăm chú quan sát khắp căn buồng. Họ lôi từ ngăn kéo tủ
ra vài lá thư rồi so nét chữ với những bức thư đặt trên bàn… Người
trẻ hơn trong hai vị gật đầu.
“Có ai biết nguyên nhân không?”
Tôi bèn thuật lại những gì mình biết. Anh ta lại gật đầu và ghi
địa chỉ của tôi. “Cho đưa xác ông ấy đi được rồi chứ ạ?”, anh bác sĩ
hỏi.
“Tôi đã gọi xe cứu thương của hội Từ Thiện rồi”, anh nhân viên
trẻ hơn đáp. “Xe đến bây giờ đấy”.
Chúng tôi chờ đợi. Trong phòng lặng lẽ. Anh bác sĩ quỳ xuống
bên Hasse. Anh ta đã cởi tung quần áo của kẻ xấu số và dùng một
chiếc khăn tay xát đi xát lại ngực ông, cố làm những động tác cấp
cứu hồi sức. Người ta chỉ nghe tiếng không khí khọt khẹt vào ra hai
lá phổi đã chết.
“Người thứ mười hai tự sát trong tuần”, vị nhân viên trẻ nói.
“Cũng cùng nguyên nhân này chăng?”, tôi hỏi.