“Vâng, nhưng…”, nàng ngần ngại trở lên giường trên. “Nhỡ Bà
Nhất đột ngột xuất hiện ở ngưỡng cửa…”
“Còn lâu mới đến Frankfurt”, tôi nói. “Anh sẽ dè chừng. Anh
không ngủ thiếp đi đâu mà sợ”.
Sắp tới Frankfurt, tôi trở lại khoang của mình. Tôi ngồi lui vào
góc ghế cạnh cửa sổ định cố làm một giấc. Nhưng tại ga Frankfurt,
một gã có bộ ria chó biển lên khoang tôi, gã lập tức giở va-li ra và
bắt đầu chén. Gã nhai nhồm nhoàm đến mức tôi không sao ngủ
được. Bữa ăn kéo dài gần một giờ. Rồi con chó biển ấy quệt ria, nằm
dài ra và bắt đầu một tiết mục hòa nhạc mà tôi chưa từng được
nghe. Đó đâu phải tiếng ngáy bình thường, mà là tiếng thở dài nức
nở bị ngắt quãng bởi những tiếng rên giật cục và những tiếng rền rĩ.
Nó giàu tiết tấu và giai điệu đến độ tôi không sao nắm bắt được quy
luật. May phúc mà gã xuống tàu lúc năm rưỡi.
Khi tôi thức giấc, bên ngoài mọi vật trắng xóa. Tuyết rơi những
bông to tướng, và khoang tàu chìm trong cảnh tranh tối tranh sáng
hư ảo hiếm thấy. Chúng tôi đã xuyên qua núi. Sắp chín giờ. Tôi
vươn vai, đi rửa mặt, cạo râu. Khi trở lại tôi thấy Pat đứng trong
khoang. Trông nàng tươi tắn.
“Em ngủ ngon chứ?”, tôi hỏi. Nàng gật.
“Thế mụ già theo chủ nghĩa duy linh ở khoang em ra sao?”
“Trẻ và đẹp. Cô ấy tên là Helga Gu mann, cũng đến cùng viện
điều dưỡng của em”.
“Thật à?”
“Thật, Robby ạ. Nhưng anh thiếu ngủ, nhìn cũng biết. Anh phải
ăn sáng cho tử tế vào”.
“Cà phê”, tôi nói. “Uống cà phê và chút rượu anh đào”.
Chúng tôi sang toa ăn. Tự nhiên tôi cảm thấy phấn chấn. Mọi sự
không đến nỗi tồi tệ như tối hôm qua nữa.