Khi trở ra, tôi gặp Orlov ở cửa. Dưới lần măng-tô mở phanh ông
mặc smoking, sắp sửa lại đằng khách sạn hành nghề vũ công. Tôi
hỏi ông có nghe tin gì về bà Hasse không.
“Không”, ông nói. “Chưa thấy bà ta trở về. Bà ta cũng chẳng
trình diện ở Sở Cảnh sát. Không trở về mà lại hơn”.
Chúng tôi cùng đi xuôi lối phố. Ở góc đường có một chiếc xe tải
chất đầy các bao than. Bác tài chống mui xe lên, hý hoáy sửa động
cơ. Đoạn bác ta leo lên cabin. Đúng lúc chúng tôi đi ngang, bác ta rồ
máy và, không gài số, nhấn mạnh ga. Orlov giật nảy mình. “Bác ốm
sao?” tôi hỏi. Ông mỉm cười, đôi môi nhợt nhạt, và lắc đầu.
“Không… nhưng đôi khi tôi hoảng sợ khi bất chợt nghe tiếng xe rồ
máy. Bữa cha tôi bị xử bắn ở Nga, người ta cũng cho một chiếc xe tải
nổ máy bên ngoài nhằm át tiếng súng. - Dẫu vậy chúng tôi vẫn nghe
thấy”.
Ông lại mỉm cười, tuồng như ông có bổn phận phải xin lỗi. “Với
mẹ tôi, người ta không bày đặt lắm trò như vậy. Người ta bắn bà
vào lúc tinh mơ dưới một hầm rượu. Đêm đến, anh tôi và tôi tẩu
thoát. Chúng tôi có kim cương. Nhưng dọc đường anh tôi chết rét”.
“Tại sao các cụ nhà bác lại bị bắn?”
“Trước chiến tranh, cha tôi chỉ huy một trung đoàn lính Cossack
hỗ trợ đàn áp một cuộc khởi nghĩa. Ông biết cái gì chờ đợi ông. Như
người ta nói, ông cho điều đó là hoàn toàn hợp lý. Mẹ tôi không
nghĩ thế”.
“Còn bác?”
Ông phác một cử chỉ gạt bỏ, mệt mỏi. “Từ bấy đến nay biết bao
chuyện đã xảy ra”.
“Phải”, tôi nói, “đúng vậy. Vượt quá súc tiêu hóa của con
người”.