thông nhỏ tháp sáng, chẳng còn gì khả dĩ khiến chúng ngạc nhiên
được nữa.
Alois xuất hiện trong chiếc áo đuôi én vừa nhuộm lại, quà tặng
của ông chủ tiệm. Gã khuân ra sáu bình đá đựng rượu gin
Steinhager, bắt đầu rót. Vào cùng với gã là Po er, thành viên hội
hỏa táng, vừa đi chỉ đạo một lễ hỏa táng về.
“Hòa bình cho trái đất!”, lão trịnh trọng nói, chìa tay cho Rosa,
rồi ngồi xuống cạnh ả. Stefan Gregoleit, vừa nãy đã lập tức mời
Georgie vào bàn, đứng lên phát biểu vài lời ngắn nhất và hay nhất
trong đời ông. Nâng cao ly rượu gin lóng lánh, ông rạng rỡ nhìn ra
xung quanh và kêu to: “Xin chúc mừng!”.
Đoạn ông ngồi xuống, và Alois lễ mễ bưng ra nào chân giò, nào
bắp cải muối, khoai tây luộc. Ông chủ tiệm ra với những ly thủy
tinh cao sóng sánh bia Pilsener óng vàng.
“Chén từ từ chứ, Georgie”, tôi nói. “Dạ dày của chú cần làm
quen dần với các món ăn béo bổ”.
“Chính tôi cũng phải làm quen dần”, chú đáp và nhìn tôi.
“Nhanh thôi”, tôi nói. “Cái chính là đừng có so sánh. Thế là lúc
nào cũng xuôi”.
Chú gật đầu và lại chúi xuống đĩa của mình. Po er nói the thé.
Lão muốn cụng ly với bác bán xì gà Busch, một khách mời, nhưng
Busch khước từ với lý do không uống để ăn được nhiều hơn.
“Rõ ngớ ngẩn chửa”, Po er chửi. “Đã ăn thì phải uống chứ!
Thậm chí uống vào càng chén đẫy”.
“Câm đi!”, Busch gắt. Đó là một con người gầy gò, mũi tẹt, đeo
kính gọng sừng.
Po er nhảy dựng lên “Câm? Mày ăn nói với tao thế đấy hở, đồ
cú thuốc lào?”