không có nhà. Một chị ở ngái ngủ bảo tôi bác đã đi họp cách đây
một tiếng. Tôi ngồi vào bàn đợi bác.
Quán vắng tanh. Mỗi một bóng đèn nhỏ bật sáng trên quầy. Chị
ở đã lại ngồi xuống và ngủ tiếp. Tôi nghĩ đến O o, nghĩ đến
Go fried, tôi nhìn qua cửa sổ ra lối phố được chiếu sáng bởi trăng
rằm lúc này đang từ từ nhô lên khỏi các mái nhà, tôi nghĩ đến nấm
mộ có cây thập tự gỗ màu đen trên chụp chiếc mũ sắt, và đột nhiên
tôi nhận thấy mình khóc. Tôi chùi nước mắt. Lát sau, tôi nghe tiếng
bước chân khe khẽ, vội vã trong nhà. Cửa ra sân bỗng mở, Alphonse
bước vào. Mặt bóng nhẫy mồ hôi.
“Tôi đây mà, bác Alphonse”, tôi nói.
“Lại đây, mau!”
Tôi theo bác vào buồng bên phải sau quầy rượu. Alphonse đến
tủ lấy ra hai cuộn băng cứu thương cũ từ thời chiến tranh. “Cậu
băng cho tôi”, bác nói và cởi quần, không gây tiếng động.
Bác bị một đường toạc ở đùi. “Trông như vết đạn sượt qua”, tôi
bảo.
“Thì đúng thế”, Alphonse lầu bầu. “Thôi, băng đi!”
“Bác Alphonse”, tôi thẳng người lên nói. “O o đâu?”
“Tôi làm sao biết O o ở đâu”, bác càu nhàu, tay nặn máu ở vết
thương ra.
“Các người không cùng đi sao?”
“Không”.
“Bác không gặp cậu ấy?”
“Không hề. Tháo cuộn băng thứ hai ra và đặt lên đây. Xước qua
loa ấy mà”.
Bác vừa lẩm bẩm vừa lúi húi với vết thương của mình.