diện chưa kìa”. Suốt tối nàng vui vẻ. Dĩ nhiên tôi không bỏ mặc
nàng một mình, mà đánh chiếc măng-tô thật dày, cổ quấn khăn, ra
ngồi ngoài ban-công đến tận nửa đêm, tay kẹp điếu thuốc, tay cầm
ly rượu, chai cognac để dưới chăn; tôi kể nàng nghe những mẩu
chuyện trong đời mình luôn luôn bị ngắt quãng và được khích lệ bởi
tiếng cười khe khẽ khúc khích như tiếng chim của nàng, tôi khoác
lác ra đủ thứ chuyện cốt được nhìn thấy nụ cười lướt trên gương
mặt nàng, tôi sung sướng về những cơn ho sù sụ của mình, nốc sạch
chai rượu, và sáng ra, lại khỏe như thường.
Gió nồm trở lại. Gió lay các cánh cửa sổ, mây nặng trĩu; tuyết
dồn lại thành đống, gào thét đêm đêm, và những người ốm vừa
nằm thao thức trong trạng thái bị kích thích, quằn quại, vừa nghe
ngóng bên ngoài. Trên những triền núi tuyết phủ, hoa nghệ tây bắt
đầu đơm bông; dưới phố, giữa đám xe trượt, xuất hiện những chiếc
xe hơi cao bánh đầu tiên.
Pat mỗi lúc một đuối sức. Nàng không trở dậy được nữa. Đêm
đến nàng hay bị những cơn ngạt. Thế là nàng tái xám đi vì sợ chết.
Tôi nắm đôi bàn tay rũ lả, đẫm mồ hôi của nàng. “Miễn sao qua
được giờ khắc này!”, nàng thở hổn hển, “chỉ giờ khắc này nữa thôi,
Robby. Ở đây họ chết…”
Nàng sợ cái giờ khắc cuối cùng chuyển từ đêm sang ngày. Nàng
tin lúc đêm tàn cũng là lúc luồng sinh khí thần bí yếu đi, gần như tắt
lịm… và chỉ giờ khắc ấy mới khiến nàng kinh hãi, sợ bị bỏ lại một
mình. Những lúc khác nàng can đảm tới mức tôi thường xuyên phải
nghiến răng vì thương nàng.
Tôi cho chuyển giường mình sang phòng nàng, ngồi xuống bên
Pat mỗi khi nàng thức giấc hoặc mắt nàng lộ vẻ van lơn tuyệt vọng.
Tôi luôn nghĩ đến những ống moócphin cất trong va-li, giả thử nàng
không tỏ ra biết ơn nhường ấy trước mỗi ngày mới, tôi đã chẳng đắn
đo gì mà không tiêm chúng cho nàng.