trễ, gầy guộc… “Tôi đã hình dung cuộc đời hoàn toàn khác”, ông
nói sau một lát im lặng. “Chúng ta ai cũng thế cả”, tôi nói.
Nửa giờ sau ông lại về phòng bên để dàn hòa với vợ. Tôi đưa
ông vài tờ báo và nửa chai Curasao sót lại không biết từ đời thưở
nào trên nóc tủ - một thứ rượu ngọt, vị khó chịu, nhưng lại rất tốt
cho ông. Thì ông có hiểu quái gì về rượu đâu.
Nhẹ nhàng, gần như không tiếng động, ông đi ra, một cái bóng
chìm trong bóng tối, tuồng như ông đã tắt ngâm. Tôi đóng cửa lại
sau lưng ông. Từ hành lang lại bay vào cái thứ âm nhạc giẻ rách tựa
một chiếc khăn lụa màu - tiếng vĩ cầm, tiếng bănggiô trầm đục -
“Làm sao em có thể sống thiếu anh…”
Tôi ra ngồi bên cửa số. Ngoài kia, nghĩa trang đắm mình trong
ánh trăng lơ. Những khối vuông sặc sỡ của các biển đèn quảng cáo
nhảy nhót trên những ngọn cây, và những tấm bia đá sáng lấp lánh.
Chúng câm lặng, không chút sợ hãi. Xe hơi lao vèo vèo sát chúng,
ánh đèn pha quét loang loáng trên những dòng chữ nhòa nhạt bởi
phong sương.
Tôi ngồi như thế khá lâu, nghĩ tới đủ thứ chuyện. Nhớ cả ngày
nào chúng tôi từ mặt trận trở về, trẻ trung, mất lòng tin, như những
người thợ mỏ được lôi lên khỏi một đường hầm bị sập. Chúng tôi
muốn tuần hành chống lại thói dối trá, thói vị kỷ, lòng tham và sự
nhẫn tâm, những thứ đã gây nên cái thảm họa mà chúng tôi đã phải
trải qua… chúng tôi đã từng tàn ác, từng không có sự tin cậy nào
khác ngoài sự tin cậy thằng bạn kề bên mình, và một niềm tin nữa
chưa hề biết phản bội: đó là tin vào bầu trời, thuốc lá, cỏ cây, bánh
mì và mặt đất… nhưng chúng tôi đã đạt được gì chứ? Tất cả đều bị
sụp đố, bị ngụy tạo, bị quên lãng, và kẻ nào không quên nối, kẻ đó
chỉ còn sống trong bất lực, tuyệt vọng, lãnh đạm và rượu mạnh, cáo
chung rồi cái thời đại của những ước mơ trượng phu vĩ đại. Những
kẻ siêng năng hể hả. Tham nhũng. Lầm than.