những dải nước bự chảng bắn tung tóe, cho tới khi bộ lông dựng thẳng
dậy dày dặn như cũ. Rồi nó cúi xuống ngoạm lấy vật thể màu đen và
lôi tới chỗ bộ giáp. Đó là một con hải cẩu đã chết.
“Iorek,” người phi công khí cầu nói, uể oải đứng lên trong lúc
vẫn giữ súng chĩa thẳng vào Sysselman. “Chào.”
Con gấu ngước lên nhìn rồi khẽ gầm gừ trước khi dùng một
móng rạch toang con hải cẩu ra. Lyra ngây người nhìn nó lột da con
hải cẩu rồi giật đứt vài dải mỡ mà sau đó nó dùng để chà lên khắp bộ
giáp của mình, cẩn thận luồn vào cả chỗ các tấm kim loại chồng lên
nhau.
“Ông đi cùng mấy người này à?” Con gấu vừa làm vừa hỏi Lee
Scoresby.
“Phải. Tôi đoán cả hai chúng ta cùng được thuê rồi nhỉ, Iorek.”
“Khí cầu của ông đâu rồi?” Lyra hỏi người đàn ông Texas.
“Đóng gọn trên hai xe kéo rồi,” ông đáp. “Sếp đến rồi kìa.”
John Faa và Farder Coram, cùng với Sysselman, bước xuống bến
cùng bốn cảnh sát vũ trang.
“Gấu!” Sysselman nói bằng một giọng cao đến chói tai. “Tạm
thời, ngươi được phép khởi hành cùng với những người này. Nhưng để
ta cho ngươi hay, nếu còn dám xuất hiện trong phạm vi thị trấn một
lần nữa, đừng trách bọn ta không nương tay.”
Iorek Byrnison chẳng buồn để ý mà cứ tiếp tục bôi mỡ hải cẩu
lên khắp bộ giáp; sự chu đáo và cẩn thận mà nó dành cho công việc
này khiến Lyra nghĩ đến sự tận tụy của chính bản thân đối với
Pantalaimon. Đúng y như lời con gấu đã nói: bộ giáp là linh hồn của
nó. Sysselman và đám cảnh sát rút lui, những người dân thị trấn khác
cũng dần bỏ đi, dù một vài người vẫn nán lại quan sát.
John Faa đưa hai tay lên miệng gọi: “Du mục!”
Tất cả bọn họ đều đã sẵn sàng di chuyển. Họ đã nóng lòng được
khởi hành kể từ khi vừa lên bờ; xe trượt tuyết đã được chất đồ, chó