ngân hàng mở cửa, rồi chính tôi sẽ rút số tiền trên chi phiếu.’ Vì thế cả bọn
chúng tôi cùng lên đường, ông bác sĩ, cha đứa bé, ông bạn của chúng tôi và
tôi, tất cả ở qua đêm trong văn phòng của tôi. Hôm sau, ăn điểm tâm xong,
chúng tôi cùng đi một đoàn tới ngân hàng. Chính tôi đưa tấm chi phiếu ra,
nói rằng tôi có đủ lý do để tin nó là giả mạo. Chẳng giả mạo chút nào. Tấm
chi phiếu là của thật.”
Ông Utterson thốt lên: “Úi dà.”
Ông Enfield nói: “Tôi thấy ông cũng nghĩ như tôi. Vâng, chuyện ấy thật tệ
hại. Vì gã của tôi là một kẻ không ai muốn phải dính dáng tới, một gã thật
sự khốn kiếp, còn người ký chi phiếu là một nhân vật rất đứng đắn, lại còn
nổi tiếng nữa, và tệ hơn nữa lại là một trong các ông bạn của ông, những
người làm điều họ gọi là tốt. Tôi nghĩ là tống tiền. Một người chân thật
phải trả một giá cao lút đầu cho những hành vi dại dột thời trẻ của mình. Vì
thế tôi gọi chỗ có cánh cửa ấy là Nhà Tống Tiền. Mặc dù ông biết có gọi
như thế cũng chẳng giải thích hết được mọi việc,” ông nói thêm, rồi trở nên
đăm chiêu suy nghĩ.
Ông tỉnh khỏi trạng thái ấy vì ông Utterson hỏi khá bất chợt: “Ông không
biết liệu kẻ rút tiền chi phiếu có sống ở đó hay không à?”
Ông Enfield đáp: “Có thể ở chỗ đó lắm chứ nhỉ? Nhưng tôi tình cờ chú ý
đến địa chỉ của gã, gã sống ở một khu nhà nào đó chỗ khác.”
Ông Utterson hỏi: “Và ông không hề hỏi về... về chỗ có cánh cửa à?”
Câu trả lời là: “Không, thưa ông, tôi tế nhị chứ. Tôi cảm thấy rất muốn hỏi,
nhưng hỏi như thế có phần nào quá giống như ngày phán xét cuối cùng.
Mình bật ra một câu hỏi, tựa như làm nảy một hòn đá. Mình ngồi im trên
đỉnh đồi, và hòn đá lăn đi, cuốn theo những hòn đá khác, rồi chẳng mấy
chốc một ông già vô can nào đó (người mà ông hoàn toàn không nghĩ tới)
bị đá rơi trúng đầu ngay trong vườn sau nhà ông ta, và gia đình ông ta phải
thay tên đổi họ. Không, thưa ông, tôi có quy tắc riêng của mình: càng thấy
khó khăn lúng túng thì tôi càng ít hỏi.”