Thời điểm nay, so với Bắc Kỳ thì suy nghĩ của người dân ở Nam Kỳ
về vấn đề buôn bán có phần thoáng đạt hơn. Dù vậy, tại Sài Gòn một nhà
nho cấp tiến như cụ Nguyễn An Khương khi mở hiệu cơm tại số 49 đường
Kinh Lấp (Boulevard) cũng phải viết bài báo “phân trần” về việc này, đơn
giản vì “Thuở nay, trong bạn đồng bào ta những tay có tiền hay cho nghề
bán cơm là nghề nghèo hèn cho nên không một ai mở tiệm cạnh tranh với
Hoa kiều...” (Lục tỉnh tân văn số 8, ra ngày
2.1.1908). Với Bạch Thái Bưởi thì ông đến với nghề này có phần “nhẹ
nhàng” hơn. Sau khi hãng cầm đồ ở Nam Định đã làm ăn phát đạt, “trong
tay sẵn có đồng tiền” ông nhanh chóng về Thanh Hóa mở hiệu cơm Tây,
mở đại lý rượu ở Thái Bình bất chấp lời ong tiếng ve của ai đó cho là cái
nghề “nghèo hèn”!
Không những thế ông còn đứng ra kinh doanh ở nhiều lĩnh vực mà
chưa mấy ai thấy được mối lợi to lớn. Nếu nhà nho Huỳnh Thúc Kháng thi
đậu đến tiến sĩ còn dám đi buôn nước mắm, thì việc làm của người Tây
học như Bạch Thái Bưởi cũng dũng cảm không kém. Ông đứng ra... thầu
thuế chợ! Lâu nay trong quan niệm cũ, chợ búa là chốn của đàn bà chân
lấm tay bùn, của những người “buôn gánh bán bưng, “buôn thúng bán
mẹt”, “buôn ngược bán xuôi” “buôn đầu chợ, bán cuối chợ”, là nơi “chưa
họp, kẻ cắp đã đến”... Vẻ vang gì nơi ấy! Vì suy nghĩ như thế, các nhà
nho ta dù thuộc làu làu vài vạn trang kinh sử, nhưng lại lơ mơ đường đến
chợ, chứ đừng nói buôn với bán nơi đó!
Với Bạch Thái Bưởi thì khác hẳn. Ông thâu tóm nguồn lợi thuế chợ
Nam Định từ năm 1906 đến 1909; tỉnh Thanh Hóa từ năm 1907 đến năm
1909; Vinh - Bến Thủy từ năm 1906 đến năm 1912. Công việc này chỉ
chấm dứt sau ngày
2.8.1912. Đó là ngày Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đánh thuế
môn bài đối với các doanh nhân người Việt ở Bắc Kỳ. Nghị định này đã
được áp dụng trước đó ở Trung Kỳ vào ngày