vào chảo khoai tây, và đưa các góc cổ áo sơmi kỳ quái của cậu (tài sản
riêng của Bob tặng con trai và người thừa kế của ông nhân ngày này) vào
miệng, hãnh diện thấy mình ăn mặc lịch sự đến thế, và nóng lòng được
trình diễn bộ đồ lanh của mình ở các sàn thời trang. Hai đứa con nhỏ hơn
của nhà Cratchit, một trai một gái, đi vào, nước mắt đầm đìa và kêu toáng
lên rằng chúng ngửi thấy mùi ngỗng từ bên ngoài hiệu bánh mì, và biết là
dành cho chúng; rồi đắm mình trong những ý nghĩ xa xỉ về mùi cây xô
thơm và hành, mấy đứa trẻ nhà Cratchit nhảy múa quanh bàn ăn, tâng bốc
cậu Peter Cratchit lên tận trời xanh trong lúc cậu thổi lửa (không kiêu ngạo,
dù chiếc cổ áo làm cậu suýt nghẹt thở), cho đến khi chảo khoai tây đang
cháy lom đom sôi lên sùng sục, cậu gõ rất to vào vung chảo rồi múc ra và
bóc vỏ.
– Bố quý hóa của các con đâu rồi? - Bà Cratchit nói. - Cả em con nữa,
bé Tim ấy? Còn Martha Giáng sinh năm ngoái cũng chẳng dặn đến chậm
nửa giờ đó sao?
– Martha đến rồi đây, mẹ ơi! - Cô gái nói xong liền xuất hiện.
– Chị Martha đây rồi, mẹ ơi! - Hai cậu bé Cratchit reo lên. - Hoan hô!
Con ngỗng to thế kia cơ mà, chị Martha!
– Kìa, cầu cho con khoẻ mạnh, sao con đến muộn thế! - Bà Cratchit nói
và hôn cô hàng chục lần, rồi sốt sắng cởi khăn quàng và mũ cho cô.
– Tối qua bọn con xong việc muộn quá, - cô gái đáp, - và sáng nay
chúng con phải dọn dẹp nhà cửa, mẹ ạ!
– Hay quá! Không sao, miễn là con đến, - Bà Cratchit nói. - Ngồi xuống
trước lò sưởi này cho ấm, con yêu quý, Chúa phù hộ con!
– Không, không! Bố sắp về đấy, - hai cậu bé Cratchit kêu to, chúng nhảy
nhót khắp nơi. - Trốn đi, chị Martha, trốn đi!
Thế là Martha trốn biến, và Bob, người cha bé nhỏ bước vào, khăn quàng
cổ dài độ một mét, thứ đồ duy nhất có tua, rủ xuống phía trước, quần áo
ông mòn xơ xác tuy chải cẩn thận, còn bé Tim ngồi vắt vẻo trên vai ông.