Kiểm thấy mình sắp chết, hẳn cũng nhìn ra sự đối đầu tranh chấp của các
con (Trịnh Cối – Trịnh Tùng) nên ông còn đẩy Nguyễn Hoàng đi xa hơn về
phía nam, lấy cớ cho cai trị thêm đất Quảng Nam (1570). Ông nghĩ rằng đã
tìm được an toàn cho con cháu mình hơn mà không ngờ đến sự thành lập
của một lực lượng đối đầu sừng sỏ.
Thế lực Trịnh Lê chủ yếu ở vùng rừng núi gây áp lực đè nặng
xuống vùng đồng bằng Thanh Nghệ khiến các tướng của Mạc trấn giữ nơi
này thấy bị đe doạ nên tìm cách theo thế lực mới, rồi khi ở phe mới, thấy kẻ
kia không mạnh như mình tưởng lại trở cờ chống đối, may mắn thì được
chấp nhận để có tên trong lịch sử, rủi ro thì lãnh cái chết có khi không dễ
chịu lắm. Không phải chỉ có trường hợp Lê Phi Thừa, Trung Hậu hầu trấn
đất Thanh lúc khởi đầu của Mạc mà cả những tướng trấn thủ vùng biên của
hai thế lực Đông Tây Việt cứ theo tình thế mà đổi phe, trong đó có Đặng
Huấn, người làm ông ngoại Trịnh Tráng sau này. Vị trí đối đầu của Tây
Việt cũng khiến cho các phe phái giành quyền mà thất bại ở Đông Việt thấy
có chỗ ẩn trú an toàn trước khi nhận ra những khó khăn mới.
Cùng tính cách rừng núi như thế hợp với thời tao loạn của những
người ngoài vòng cương toả, Trịnh dễ kết hợp với thế lực chống đối họ Vũ
vùng tây bắc Đông Kinh (1547): anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật (Uyên
“thiện tiện giết người” – Phan Huy Chú) từ Hải Dương lên vùng Tuyên
Quang chiếm đất, cũng lấy danh nghĩa phù Lê. Tất nhiên với sử quan thì
vai trò của dòng họ này thật khuất lấp, phải phụ thuộc vào các biến cố giữa
Lê Mạc nhưng với danh xưng chúa Bầu/Biều mà dân chúng trong vùng
xưng tụng, xây cất đền thờ một người khởi nghiệp (Vũ Văn Mật) thì họ
đúng là chúa một vùng, như các chúa Trịnh Nguyễn, là một thế lực đe dọa
Mạc thực sự từ phía tây bắc trong ngay cả lần liên kết với Trịnh đầu tiên
1551. Bài phú nôm của Nguyễn Hãng tả cảnh thủ phủ Đại Đồng, tuy vướng
víu với văn từ xưng tụng mồm mép của trường ốc nhưng cũng tỏ rõ về một
vùng “thành thị… họp khách bốn phương, xe, dù, ngựa dong đường thiên
lí,” đã đem lại “thực lộc” cho tác giả đến 2000 lạng bạc tiền thưởng theo lời
truyền tụng đến tai Lê Quý Đôn. Sự sung túc của cải lấy từ khu vực cai trị