Tùng được phong Bình An Vương thì Vũ Đức Cung cũng xưng là Long
Bình Vương, còn Nguyễn Hoàng thì tính chuyện năm sau bỏ về Nam.
Cái thế phân chia quyền lực trông chừng nhau như thế đã ảnh
hưởng đến sự tồn tại của các lực lượng nắm quyền trên đất Việt đến quá
nửa thế kỉ XVII. Họ sống yên ổn trong khu vực riêng nên sử Việt (của
Trịnh Lê) đã bỏ lơ vùng chúa Bầu một thời gian dài, đến năm 1669 mới
nhắc đến người kế nghiệp đương thời là Vũ Công Đức bị thủ hạ lấn lướt,
giết đi, để Trịnh có cớ can thiệp lấy lại đất đai cho trung ương, phong tước
cho người con, Vũ Công Tuấn, mà giữ ở Kinh như giam lỏng. Tên người
thủ hạ kia, Ma Vân Trường, và các người liên hệ tiếp theo trong giao tiếp ở
biên giới, chứng tỏ tập đoàn họ Vũ từ trung châu, lúc này phải chịu thất thế
trước các lực lượng chính thống địa phương. Và điều này làm nổi lên vấn
đề biên giới Việt Trung.
Nhà Mạc yếu thế trước sự đe doạ trừng phạt của nhà Minh nên phải
cắt một phần đất khiến cho các sử gia về sau, phụ hoạ với sử quan Lê mang
tinh thần chính thống, tìm cách chê trách tàn tệ. Nhưng việc mất đất không
phải chỉ có dưới đời Mạc. Vũ Công Tuấn từ Đông Kinh trốn về đất cũ
(1672) khuấy động, xưng Tiểu Giao Cương Vương (“vua vùng Giao Chỉ
Nhỏ”) để xác định chủ nhân vùng đất của cha ông. Thương nhân W.
Dampier đến năm 1688 còn nghe nói có vương quốc “Bao” / “Bao tan”
(Bầu Tuấn) ở về phía tây bắc “tỉnh Bắc” mà không biết rằng Công Tuấn đã
yếu thế, không đủ lực lượng tranh chấp với cả dân địa phương nên phải
trốn qua bên kia biên giới. Lúc bấy giờ mới thấy nổi lên vấn đề cương vực:
Trịnh thấy đất Việt mất 3 châu/động ở Tuyên Quang, Hưng Hoá, muốn đòi
lại, không được. Tất nhiên là nhà Thanh muốn giữ đất, không trả nhưng vấn
đề cũng vướng vào một chút pháp lí.
Trong thời gian về sau, qua các cuộc tranh cãi đất đai, có lúc quan
địa phương, triều đình Thanh phải chịu trả đất chiếm như trường hợp vạch
sông Đỗ Chú, mỏ đồng Tụ Long… có vấn đề còn lại đến ngày nay. Tuy
nhiên, vấn đề biên giới Trung Việt lại mang thêm tính co dãn tuỳ thuộc vào