cai trị vùng Thái Nguyên, bắt Vũ Công Tuấn về Kinh giam lỏng với tước
hờ Khoan Quận công. Quyền hành tập trung hơn vào tay chúa Trịnh. Chưa
lên ngôi chúa mà Trịnh Tạc đã được phong tước Vương. Thay thế Trịnh
Tráng (1657), Tạc “được phép” chầu vua không phải lạy mà ngồi ghế cạnh
vua, tự cắt đặt đầy đủ thượng thư các Bộ và xếp cận thần (Phạm Công Trứ)
làm Tham tụng (1664). Phép Bình lệ tuy biếng nhác nhưng gọn nhẹ của
Phạm Công Trứ đã hoàn thành năm 1669, cung cấp nhân lực mới và đầy đủ
cho Trịnh. Thế là Trịnh Tạc mở cuộc tiến công lớn năm 1672.
Tính chất quyết liệt thấy rõ ngay ở lời hịch không còn nương nhẹ,
nhắc chuyện xưa “ngầm mưu phản trắc… đốt phá sứ quán, mưu cướp sắc
thư… (là) giống ác… nói năng hỗn xược…” và lời hứa hẹn “thắng lợi trọn
vẹn, giết hết bọn phản nghịch mới thôi.” Số quân 10 vạn, nói tăng lên 16
vạn, Nguyễn cũng tổng động viên, nói phao 26 vạn. Nguyễn Hữu Tiến
(1602-1666) đã chết nhưng Nguyễn Hữu Dật vẫn còn. Trận chiến giành giật
ác liệt quanh luỹ Trấn Ninh ở địa đầu, mới đắp năm 1662. Chi tiết chiến
trận chứng tỏ có vũ khí mới được Trịnh đem ra sử dụng. Sử quan Nguyễn
ghi việc Trịnh “thả diều giấy nhân gió mà phóng hoả, hoặc bắn đạn lửa” thì
cũng chẳng có gì lạ hơn nhưng Nguyễn Khoa Chiêm (Nam triều công
nghiệp diễn chí)
cho thấy Trịnh có đạn nổ mảnh (“một mẹ năm con” của
Lịch triều tạp kí
) – không hẳn là đạn như ngày nay nhưng chắc cũng là một
hình thức nổ mảnh nào đó, khiến có người chết rất nhiều. Tập binh pháp
Hổ trướng khu/xu cơ của Đào Duy Từ cho thấy không phải chỉ có loại tư
tưởng chiến thuật chiến lược kiểu Tôn Tử mà còn bàn cả đến cách thức chế
tạo đạn dược nữa.
Kết cục Trịnh cũng phải rút lui, sử quan họ không nói gì thêm
nhưng tác động gây mất tinh thần của chiến trận thấy thật rõ về phía
Nguyễn: Viên nguyên soái hơn hai mươi tuổi, Nguyễn Phúc Hiệp “dẹp giặc
trở về, tuyệt hẳn không cho đàn bà con gái yết kiến, dựng am nhỏ thờ
Phật… bàn đạo, thuyết pháp để tự vui.” Ông chết lúc mới 22 tuổi (1675)
nhưng Nguyễn Hữu Dật già hơn nhiều (sinh 1604), sau khi chết (1681)