“tự tìm nguồn thu nhập” được nên có thể mua lại tiền hát cửa đình vốn là
của giáo phường được thu nơi biểu diễn (1664). Lê Quý Đôn đã thuật lại
một trường hợp xảy ra trong kì kiểm kê ruộng đất năm 1667 chứng tỏ lối
sống tinh ranh ở làng xã thoả hợp với tình trạng quan quyền đã đưa lại
quyền lợi ở cơ sở hành chính thấp nhất này như thế nào: Một ông quan
nhận tiền hối lộ của làng mà không biết, cho đến khi được ý tứ nhắc đến
trong buổi họp công khai!
Tất cả cho thấy chừng mực khả năng cai trị của người cầm quyền
Trịnh Lê, và do đó, dù với tham vọng quản lí sâu sát, họ cũng phải nhường
lại một phần quyền hạn cho lớp người lãnh đạo làng xã. Làng xã đã có tổ
chức hoàn chỉnh hơn với tính cách một triều đình nhỏ ở địa phương. Đình
làng có dấu vết xây cất cụ thể của một đơn vị từ thời Mạc, đến đây đã là trụ
sở làng tuy vẫn còn vài dấu hiệu lạc loài như trường hợp đình Thưởng
Xuân của xã Lương Xá, Bắc Ninh làm nơi hội họp, bàn việc công (1700)
nhưng, như cái tên chỉ rõ, nó còn là chốn để “nghỉ ngơi, ngắm cảnh,”
không có dáng giữ vị trí tôn kính của nơi ông thành hoàng ngự trị. Đình xã
Mạn Đê (Hải Dương) lúc sửa chữa, nghĩa là mãi đến lúc làm mới, làm lớn
ra vẫn còn là một đền thờ thần linh (bia 1677.) Thế rồi thật là quá muộn, xã
Bình Lương (Thái Bình) nhà nhà giàu sang mà chưa có đình làm nơi hội
họp, phải chung tiền xây cất (bia 1710.) Tuy nhiên thông thường thì đình
làng lúc này đã có vị trí khẳng định trong sinh hoạt làng xã. Tháng 7âl.
1663, khi ban bố 47 điều giáo hoá, triều đình đã có nơi để phổ biến đến tận
từng người dân: “Các nha môn Thừa Hiến, các xứ và phủ, châu, huyện đều
phải sao thành một bản treo ở nơi coi việc và chuyển gởi tới các xã sở
thuộc, mỗi xã đều viết ra bảng treo ở đình, cho các quan viên, giám sinh,
sinh đồ, xã trưởng cứ đến ngày có việc làng thì hội họp đàn ông, đàn bà,
người già, người trẻ đến giảng giải, hiểu thị…”
Thứ bực chức vụ cùng quyền lợi của các viên chức trong làng đã
thấy thành hình rõ rệt (xác nhận về “ngôi hương ẩm” 1647.) Có khoán ước
quy định chi phí, lệ biếu quan viên, hội tư văn, thật rành rẽ (bia 1656,) xác
định quyền hạn xã thật rộng đến mức khá lạ lùng: Bia 1656 của xã Bình