hợp tín ngưỡng Phật Đạo, đậm đặc hơn về phía quần chúng bên dưới với
các Mẫu thể hiện cho dạng nữ của rừng núi, đồng biển nhưng ngược lên
trên thì đầy dạng nam tính, từ hình trạng của Đức Thánh Trần mang tính
lịch sử cụ thể, lôi theo các ông vua Hùng nhạt nhoà chen chúc với các ông
Thiên sư, Thượng sư không phải vật vờ ngoài đất trời mà đóng chốt hẳn
vào trong các đền/điện, và đang có đà bành trướng mạnh mẽ.
Sinh hoạt trí thức của làng xã nổi bật trong sự phát triển chữ nôm
khiến triều đình phải lưu ý cảnh cáo trong bản giáo hoá 1663: “…các
truyện quốc ngữ và thi ca đầy những lời dâm đãng thì không được khắc bản
in ra làm tổn thương phong hoá.” Tất nhiên chữ nôm phát triển cũng có
nguyên cớ là do bởi thời loạn lạc, việc củng cố chính quyền nằm trong tay
quan võ, những người đi vào quan trường không cần nhiều “chữ” (Hán)
nhưng “quốc ngữ” cũng phải dựa vào chữ Hán mới thành hình. Qua thi cử,
chữ Hán đã đi đến tận làng xã, và như đã thấy, không phải ai cũng thành đạt
trong trường ốc, lớp người thất bại này sẽ đem về xóm làng một hình thức
chữ cố định cho các truyện kể, văn thơ vốn chỉ là truyền miệng lâu nay. Có
quần chúng có tiền của riêng, loại văn thơ này được phổ biến rộng, duy chỉ
vì nguồn gốc cảm hứng không phải từ trong khuôn khổ chính thức nên gây
lo ngại cho triều đình khiến cho có lệnh răn đe như ta đã thấy. Ấy thế mà
lệnh dù qua lời khuyên, dù bằng văn bản như về sau vẫn không ngăn được
sự phát triển của nó, một phần vì cái thế giằng co ngay trên thành phần tột
đỉnh của quyền lực đã khiến buông thả một phần cho bên dưới. Vả lại nhìn
kĩ thì đó chỉ là lệnh cấm một bộ phận chứ không phải là toàn thể văn nôm,
bởi vì văn thơ nôm đã xuất hiện dài hơi, và ngay các chúa Trịnh cũng làm
thơ nôm.
Rõ ràng nhìn chung thì thế kỉ XVII đã tạo dựng căn bản cho một xã
hội Việt Nam truyền thống ở cấp bậc cơ sở, giống với ngày nay hơn là với
các thế kỉ về trước của nó.