CHƯƠNG XII: ĐÀNG NGOÀI và
ĐÀNG TRONG
Vấn đề danh xưng và hướng phân li
Sau trận 1672, quân Trịnh “chia binh đóng đồn ở các đường trọng
yếu châu Bắc Bố Chính, phòng giữ nghiêm nhặt, lấy sông Gianh làm giới
tuyến (phía nam sông là Nam Hà, phía bắc sông là Bắc Hà.) Từ đây Nam
Bắc nghỉ binh.” Đó là lời của Thực lực tiền biên,
quyển sử của nhà
Nguyễn, phe phía Nam. Chúng ta không gặp một xác nhận như thế trong
quyển sử của nhóm Lê Trịnh phía Bắc tuy cũng có những lời cam nhận giới
hạn quyền lực của mình: “(Trịnh xếp đặt quan tướng) khống chế biên thuỳ,
giữ yên dân một phương.” Họ chỉ dùng chữ “hà”: Bắc Hà, Nam Hà khi nói
về sông Lam trong trận chiến 1655-60 vào thời gian quân Nguyễn lấn đất
làm nổi lên ý thức về biên giới trên vùng đất xa xôi càng lúc càng mở rộng
thêm bởi người khác, còn đối với chính họ thì tính chất chủ quyền chỉ mơ
hồ trong hình ảnh của thời xa xưa: “Nhân dân hai xứ của các ngươi vốn là
nhân dân ở đất của Thánh tổ Thần Tông Hoàng triều, không phải do họ
Nguyễn khai thác mà có.” (Hiểu dụ hai xứ Thuận Quảng 1672.)
Nói như thế là để khẳng định tham vọng chủ quyền nhưng thực tế
kiến thức và quyền lực cũng khiến họ Trịnh không thấy có nhiều vướng víu
tình cảm với vùng đất “do một số thú vật đã thiết lập một nước li khai ở
biên giới phía nam” của họ như thấy trong bức thư Trịnh Tráng cầu viện
Batavia năm 1637. Chúa xin giúp tàu thuyền, súng ống, binh lính, hứa khi
thành công sẽ ban tặng vàng bạc và nhất là “sẽ trao xứ Quảng Nam” cho họ
cai trị, nghĩa là chỉ để đổi chủ vùng đất, bởi vì Hà Lan “có thể thu hoạch