người Lào, người Chiêm mà triều đình Thăng Long đã cất công chinh phạt.
Từ hình tượng bên trong
rừng núi phía tây tối tăm, đối ứng với phía ngoài
đồng ruộng rộng rãi thênh thang nơi người dân nhìn thấy hàng ngày, đã
phát sinh hai cặp đối ứng trong-tây, ngoài-đông trên đường di chuyển nam
bắc của người dân Việt đương thời. Thế rồi một thời gian có chính quyền
trung hưng trên đất Thanh Nghệ, và cũng từ đó họ Nguyễn xuất phát gây
dựng sự nghiệp, khiến có một vị trí ở giữa
để nhìn mà tuông đổ lực lượng
xuống đồng bằng phía bắc, đi về phía nam, làm quân bình sự cân nhắc,
phán đoán. Cho nên hai danh xưng “đàng trong”, “đàng ngoài” có thể đã
xuất hiện trong thế kỉ XVI từ trong dân chúng, không mang ý nghĩa chính
trị chênh lệch nặng nhẹ, phải trái rồi sẽ trở thành danh xưng khu vực sau
khi người dân nhận ra có hai vùng đất thuộc hai chính quyền riêng biệt
khiến cho cả người ngoại quốc đến nơi cũng phải gọi riêng là nước An
Nam và nước Quảng Nam! Chính quyền Trịnh trong thế kỉ XVII còn
vướng víu với sự hiện diện của họ Mạc nên phải chịu thêm một sự phân
vùng khác mà G. d’Amaral có ghi: “đàng tlên” / Đàng Trên.
Một trăm năm đoạn tuyệt, nghỉ binh giúp cho các lãnh chúa có cơ
hội củng cố địa vị của mình theo với tình thế và phương tiện có được, gần
như không còn dính dấp với nhau nữa khiến cho đến khi “gặp lại”, Tây
Sơn, một kẻ đại diện khác của Đàng Trong đã xưng hô với Lê, ông chủ
danh nghĩa cũ của toàn vùng, một điều “quý quốc,” hai điều “quý quốc”
mang tính xa lạ, đưa đẩy khách sáo, bày tỏ một thực tế không những về
quyền lực khác biệt mà còn thoáng vẽ ra một cách nhìn mới về nội dung đất
nước: nước không còn chỉ thuộc về một ông vua như trước nữa. Quan niệm
về sự thống nhất trong vương quyền Nho Giáo được xây dựng, củng cố
trong mấy trăm năm đã bị thực tế phủ định. Ý thức của thực tế mới đó được
Lê Chiêu Thống, sau khi Tây Sơn rút quân, nhận ra nơi cái “nước trống
không,” không của cải, không quyền lực, nằm ngoài thân xác bậc Con Trời
của chính ông.