quan điểm kẻ thắng cuối cùng không nói làm gì nhưng những người chống
đối khác, mang danh hiệu “phù Lê,” cũng nhìn họ như một thứ tội đồ của
lịch sử chỉ vì họ là kẻ thất bại mà thôi. Công tích của họ tuy còn người
nâng đỡ ghi chép nhưng địa vị tông tộc của họ rốt lại đã phải đi theo cái
Phủ Chúa bị Chiêu Thống ra lệnh đốt tan tành năm 1787. Công bình nhìn
lại, ta thấy không có ông chúa nào mà không xứng đáng với tính cách
người thủ lĩnh cả. Họ giết nhau để giành ngôi hay giữ ngôi nhưng rõ ràng là
thật tận lực trong địa vị lãnh đạo đất nước. Trịnh Căn có một tuổi trẻ hư
đốn theo lời gia phả họ Đặng nhưng đã len lách lên đến tột đỉnh bằng chính
quân công của mình trước khi chứng tỏ khả năng điều hành đất nước, dù
rằng theo chứng nhân đương thời (W. Dampier) ông có “thể chất ốm yếu”
và mang bệnh hủi (?). Trịnh Cương là người thi hành cải cách nhiều nhất,
có căn bản nhất như cải cách thuế khoá 1723, hình phạt dưới thời ông cũng
bớt phần tàn khốc (không chặt tay 1721, không xử tử xã trưởng ẩn lậu dân
đinh.) Trịnh Giang bị lật đổ với cớ làm hư hỏng triều chính nhưng đó là khi
ông ta đã đắc chí và mang bệnh hoạn, còn khi mới lên ngôi ông vẫn sử
dụng Nguyễn Công Hãng để thi hành những cải cách lớn lao dù đã bị ông
này chê nặng lời khi còn là Thế tử.
Bình thường cứ mỗi ông chúa lên là một cố gắng gây dựng cơ đồ,
vun đắp tiếp cho các công trình về trước hay chỉnh đốn lại những gì sa sút
của các ông chúa trước vì cầm quyền lâu ngày nên trở thành giãi đãi, mỏi
mệt, buông lung… Các ông chúa tuy phải diệt trừ người thân để nắm quyền
nhưng họ cũng từng triệt hạ kẻ lộng quyền dù là thân thuộc, tay chân tin
cẩn để bảo vệ cơ nghiệp chung. Trịnh Tráng đã chần chừ không lập người
kế nghiệp là thuộc dòng chúa Nguyễn vì cốt để chuyển vào người xứ Bắc:
Trịnh Tạc. Các chúa trừng trị xong là đến vỗ về: Chính Trịnh Cương khởi
đầu làm thơ tiễn đưa sứ thần (1715 rồi 1718) mà dấu vết còn lại kèm theo
nhân vật Nguyễn Biểu đã khiến ông Hoàng Xuân Hãn đặt sự việc vào đầu
thế kỉ XV. Và cũng chính liên tục dưới đời các chúa đã ban phát những bài
“giáo hoá” mà chi tiết là vào năm 1663, liên tục trong các năm 1676, 1710,
1751, 1760 như dụng ý giải tỏ vai trò thân cận, không để dân chúng Đông