cầm đầu làm việc xử đoán kiện tụng, cần đến văn từ mà thôi. Thuế má tận
vét là để nuôi quân lính cho nên các Ti đặt ra là thu chi lương hướng cho
các Dinh. Việc thu thuế, bắt lính thường trực đã được quy định từ Lê sơ qua
các tổ chức tuyển trường, ở Đàng Trong là 6 năm một lần cho việc kiểm tra
lớn, 3 năm một lần cho kiểm tra nhỏ để điều chỉnh sự thay đổi trong
khoảng thời gian nhà nước không để ý tới. Vẫn có hạng Lánh sẵn sàng
thành Lính, hạng Quân dự bị tiếp theo, hạng Dân sau rốt, với những hạng
khác, tất cả nếu không nằm trong quy định miễn giảm thì chỉ có một việc là
nạp thuế, đi xâu. Ngoài chính binh của nhà nước còn có lực lượng địa
phương, gọi là thổ binh hay thuộc binh, trong đó có cả người miền núi,
người Chàm (quân Côn Man [Mọi Gậy? Mọi Con?] của Nguyễn Cư Trinh).
Với ghi chép còn lại thì nhà nước không phải trả lương, họ chỉ khỏi đóng
thuế mà thôi. Họ được sử dụng vào việc bảo vệ an ninh ở địa phương, có
tác dụng rất mạnh ở địa phương xa, nơi chính quyền trung ương còn lỏng
lẻo như ở đất Gia Định. Tuy nhiên với vị trí mù mờ dân/lính như thế thì họ
cũng có thể vừa là người giữ trị an vừa là mầm mống của nổi loạn khi
quyền bính bên trên trở nên bất lực.
Tất nhiên vẫn có cảnh lùng bắt lính nghiệt ngã như mọi chuyện xảy
ra thời xưa nhưng thân phận người lính Đàng Trong so ra sáng sủa hơn lính
Đàng Ngoài. Một tấm hình để lại của phái đoàn J. Crawfurd cho thấy họ áo
quần lành lặn, bịt khăn trùm đầu, giống như một người dân Chàm/Ấn ngày
nay, còn sử quan Nguyễn thì ghi rằng họ có đến 4 bộ quân phục. Từ người
ngoại quốc đến Lê Quý Đôn đều nhận rằng họ ăn mặc sang trọng (lính mặc
áo đỏ, áo xanh – B. Vachet sống ở Đàng Trong 1673-83,) thứ kiểu cách bề
ngoài đó đã khiến cho quan tướng Thuận Hoá năm 1774 khinh thường quân
Trịnh vì thấy kẻ thù ăn mặc rách rưới, dáng vẻ đói khổ. Họ thuộc vào các
đội chính binh tuy gồm cả thuỷ lẫn bộ nhưng đơn vị bộ binh vẫn có tên
“thuyền” chứng tỏ khuynh hướng vận chuyển bằng đường thuỷ là nổi trội.
Đây là dấu vết rõ nhất về tính chất địa vực đã ràng buộc trong quá khứ
Chàm còn lưu lại ở Đàng Trong: Các vùng đất bị ngăn bằng những dãy núi
nên chính các con sông ra biển Đông là trục lộ nối liền thuận tiện nhất như