Việt nam thế chí, Việt sử cương mục
vào cuối thế kỉ XIV nói đến 18 đời
Hùng Vương. Ngay cả người Minh, tác giả An Nam chí
(1419) cũng nhắc
đến Mị Nương “con gái Hùng Vương” ở Tản Viên. Có điều còn một chút
lẫn lộn: Ở nơi mà ngày nay là đền Hùng, họ thấy có “cố chỉ của cung Lạc
Vương.” Hai chữ Lạc và Hùng do đó cứ ngập ngừng quanh quất trong công
trình các sử gia Việt, và danh xưng Hùng chỉ trở thành độc bá khi có quyết
định chính trị chen vào.
Như thế các dấu vết sử liệu cũng như thực địa cho thấy nơi quanh
đỉnh đầu lưu vực sông Hồng từ xưa đã có ít ra là một tập họp có người
đứng đầu xưng là “vương”. Điều đó không phải là lạ. Từ năm 180 tCn,
Triệu Đà đã nói với sứ giả Hán rằng phía đông của ông ta thủ lãnh Mân
Việt một ngàn người tự xưng vương, phía tây, dân Âu Lạc ở trần cũng xưng
vương! Gạt sang bên cách giải thích cụm từ “tây âu lạc” rắc rối như đã
thấy, cứ cho rằng Âu Lạc Triệu Đà nói đây là nước của An Dương Vương
thì thấy rằng dưới ảnh hưởng của văn minh Hán tộc tràn xuống nam, nhiều
tập họp dân bản thổ đã bắt đầu tổ chức thành đơn vị lớn nhỏ mà người cầm
đầu theo cung cách hướng thượng tự nhiên, đã xưng Vương như nơi khuôn
mẫu họ bắt chước theo. Nghĩa là không phải chỉ có (Mân Việt và) Âu Lạc
mà Triệu Đà tiếp cận được. Những “nước” khác trong vùng không tiếp xúc
được với người “có chữ” (Hán), đã tan biến vào trong thời gian chỉ còn lại
một nước Lạc và một nước khác kém may mắn hơn nhưng vẫn đủ may mắn
để tồn tại là “nước” Hùng. Nhiều trăm năm sau khi người Hán chiếm đóng,
họ còn thấy ở vùng này có rất nhiều tập họp người khác ngôn ngữ, muốn
hiểu nhau phải qua thông dịch, như đối với Việt Thường của sách vở xưa.
Mã Viện thắng Hai Bà Trưng, bắt cả hơn 300 “cừ soái” đem về Linh Lăng.
Gần hai trăm năm sau, sớ Tiết Tổng dâng lên vua Ngô (231) còn cho ta
biết: “(Giao Chỉ) sông núi xa xôi, tập tục không như nhau, ngôn ngữ phải
thông qua nhiều lần phiên dịch mới hiểu…” Và cả đến thế kỉ VIII, sự xuất
hiện của Vua Đen Mai Thúc Loan còn cho thấy dấu vết không nhỏ của tập
họp người mang dáng dấp Hải Đảo trên vùng Nghệ Tĩnh nay. Rõ ràng là
trước khi người Hán biết đến xứ sở này, không thể có một chính quyền