thống nhất dù sử gia ngày nay viện dẫn đến tài liệu thống kê dân số nói dân
thuộc địa phương nam của nhà Hán đó có cả gần triệu người! Trở lại về
trước, ta chỉ còn thấy hai tập họp Hùng và Lạc. Nguồn gốc của chữ Hùng
thì cũng đã có nhiều giải thích trong đó có của ông Trần Quốc Vượng,
minh định cho một nền văn minh bản địa cao cấp, nhưng cũng như với
trường hợp của chữ Lạc, vấn đề vẫn không đi đến kết luận thoả đáng.
Chúng ta chỉ thấy ngay khởi đầu, thông tin về hai tập họp người gần
tương đồng thời đại đó đã có sự phân biệt về nơi cư trú. Lạc là để nói về
một tập họp người trồng lúa nước nơi một vùng khoáng đãng, vùng đồng
bằng gần biển, ít ra là tách biệt với rừng núi. Còn Hùng, cũng có gốc từ
ruộng đất như Lạc – tên “hùng điền” lấy từ ý đất bốc hơi mạnh, nghĩa là đất
ở những thung lũng hẹp, gần rừng núi hơn. Truyền thuyết 50 người con
theo mẹ lên núi có vẻ là rơi rớt của một ý niệm “hùng” như thế. Khi người
Hán tràn xuống nam, họ chiếm vùng đồng bằng không những vì Triệu Đà
có liên hệ trước với Âu Lạc mà vì từ bản thân khai thác của dân Hán, họ
chủ yếu tập trung quyền bính ở vùng châu thổ, dành các đất trên rừng núi
xa, cho thuộc vào vòng ki mi (ràng buộc lỏng lẻo) vì không đủ khả năng
chế ngự. Tên Lạc, Âu Lạc, Lạc Việt trở thành quen thuộc trên cửa miệng,
văn thư quan lại Hán để chỉ đám dân thuộc địa vùng đồng bằng theo với địa
danh hành chính Giao Châu gồm cả Hợp Phố của Quảng Đông ngày nay,
nên có lúc họ gọi là Lạc Việt cả người ở đảo Hải Nam. Tập họp Lạc Việt
trở thành bao trùm trên cả những vùng không hẳn được xác định lúc đầu.
Còn người Hùng thì bị quên lãng vì lúc này đã trở thành điểm nhỏ bên lề
những biến động lớn trong ghi chép của đế quốc Hán đã vươn đến tầm mức
quốc tế, cho nên chỉ còn lại ở những kí ức địa phương. “Cung cũ của Lạc
Vương,” lời ghi chép ở thế kỉ XV của người Minh đó là kết tụ của kí ức
dân chúng địa phương về ông vua xưa của mình (Hùng), và sự lầm lẫn của
người cai trị về một loại lãnh chúa mất địa vị (Lạc) đã bị lịch sử đưa vào
vòng “nội thuộc” của họ từ lâu. Họ Trần kiêu ngạo của vùng đồng bằng
không xây cất cung ấy vì họ không hề để ý đến một lãnh chúa ở vùng di
man như họ từng ứng xử. Đền đài tàn tạ mà người Minh trông thấy là của